Kiến thức 🚨🚨🚨: Làm rõ lý lịch, gốc tích Nguyễn Huệ là ai, họ gì dân tộc gì.

Lê Nữu Vượng

Yếu sinh lý
Việt Nam ta có kẻ họ Hồ song đổi qua họ Nguyễn và kẻ họ Nguyễn qua Hồ thấy láo nháo quá


Johnny Lee xin lập thớt để biện chứng cho gốc tích kẻ họ Hồ xong lại nhận họ Nguyễn gốc gác mơ mơ màng màng gian gian díu díu mập lờ tên là Huệ


image
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Lê Nữu Vượng

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Manh mối xuất hiện của dòng họ Hồ (Tây Sơn) trên đất Quy Nhơn - Bình Định xưa kia liên quan đến cuộc nội chiến khốc liệt trong lịch sử nước ta thời Trịnh - Nguyễn phân tranh thế kỷ 17. Bấy giờ quân Trịnh chiếm Đàng Ngoài, quân Nguyễn ở Đàng Trong. Hai bên giành đất, tranh dân, đánh nhau 7 lần trong khoảng 45 năm, tính từ trận đầu tiên năm 1627 đến trận cuối vào 1672. Khoảng thời gian này, họ Hồ đã có mặt trên đất Nghệ An (thuộc chúa Trịnh) từ 700 năm trước, mà ông tổ khai sáng là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật.

Chúng tôi đã tiếp xúc với một số bà con họ Hồ ở miền Trung, miền Bắc, cũng như tại TP.HCM, và được cho xem nhiều tài liệu về gia phả, một số sử liệu và các tác phẩm liên quan. Trong số đó có cuốn Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam do Hồ Sĩ Giàng biên soạn đã tái bản đến lần thứ 7 bởi NXB Văn hóa thông tin và NXB Tổng hợp TP.HCM, được Ban liên lạc họ Hồ toàn quốc xem là “tiếng nói chính thức” phổ biến trong mỗi kỳ họp mặt. Trong cuốn sách có viết rõ: “Họ Hồ là họ lâu đời ở xứ Nghệ. Kể từ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật lập nghiệp ở hương Bào Đột (thuộc xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) đến nay đã trên 1.000 năm (…). Hồ Hưng Dật người Triết Giang. Triết Giang xưa (Ngô Việt) nằm trong dải đất Bách Việt, bị Hán tộc tràn xuống Hán hóa (là tộc Việt cuối cùng bị Hán hóa). Dân tộc Việt Nam là Lạc Việt (và là dân tộc) duy nhất không bị Hán hóa. Các nhà khảo cổ học, sử học đều xác nhận tổ tiên xa xưa của người Bách Việt và Lạc Việt có quan hệ mật thiết với nhau. Vậy Hồ Hưng Dật nguồn gốc là người tộc Việt thuộc phương Nam Trung Quốc (…) đã đặt chân đến Bào Đột (khoảng năm 947-951) xây dựng nền móng đầu tiên của dòng họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Ông là “một trí thức lớn của thời đại ấy, đã đậu trạng nguyên, đã làm quan, nhưng đã lui về trở thành một nhân sĩ ẩn dật, gắn bó với nhân dân, không tranh bá đồ vương. Con cháu ông phát triển ở hai châu Hoan và Diễn (Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay - NV) và nhiều nơi trên đất nước”.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hồ Hưng Dật được cử sang làm thái thú ở châu Diễn, song: “cũng có thuyết cho rằng ông sang Giao Châu (Việt Nam) lánh nạn và được cử làm quan. Quốc sử triều Nguyễn viết ông trôi dạt và được làm quan ở châu Diễn. Thuyết này xét ra có phần hợp lý hơn”. Ông vốn đồng liêu với Đinh Công Trứ (thân sinh Đinh Bộ Lĩnh), vì thế Đinh Bộ Lĩnh có biết ông. Khi Đinh Bộ Lĩnh muốn dấy binh dẹp các sứ quân đã đến gặp Hồ Hưng Dật thăm dò xem ông có ý dấy quân hay không. Ông đã thổ lộ với Đinh Bộ Lĩnh chỉ mong làm tròn phận sự của người dân, “để cho Đinh Bộ Lĩnh yên lòng, ông giơ kiếm lên thề “Vạn đại vi dân”, nghĩa là vạn đời làm dân, hay vạn đời vì dân. Ông lo việc cày ruộng, chiêu mộ dân phiêu tán, lập ấp trại”.

Gốc của họ Hồ là ở đất Bào Đột (Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) với hai tông phái. Một tông phái ở châu Diễn (trưởng) và một ở Thanh Hóa (thứ). Và cháu 15 đời của tổ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật có: Hồ Quý Ly, Trạng nguyên Hồ Tông Thốc, Quản lĩnh hầu Hồ Hân, Hoan quận công Hồ Nhân và cháu 27 đời có hoàng giáp Hồ Sĩ Đống, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Tư nhân hầu Hồ Phi Tử và anh hùng dân tộc: vua Quang Trung (tức Hồ Thơm - Nguyễn Huệ). Theo Tạ Chí Đại Trường: “Có một điều chắc chắn là tổ tiên Tây Sơn gốc ở Nghệ An. Đại Nam nhất thống chí cho biết Nghệ An có những chi nhánh họ Hồ, đỗ đại khoa làm quan lớn. Chiến tranh 1945-1954 còn may mắn giữ được Hồ tôn thế phả để biết thêm được một Hồ Xuân Hương trong dòng dõi danh gia ấy (...): “Vậy thì khoảng 100 năm sau khi vào Nam, họ Hồ Nhân Sơn có thể đã được an sáp tại làng Tây Sơn thuộc huyện Phù Ly, qua các đời thì sinh ra Nhạc và hai người em là Bình (tức Hồ Thơm - Nguyễn Huệ) và Lữ”.
Chính khoảng thời gian khói lửa tương tàn Trịnh - Nguyễn đang bốc cao ấy (1655 - 1657), hạt giống họ Hồ đã theo ngọn gió ly loạn bay tản về phía Nam. Trong số người bị quân Nguyễn đưa đi khai khẩn ruộng đất tại ấp Tây Sơn có Hồ Phi Khanh, là ông tổ 4 đời của anh em nhà Tây Sơn. Một tài liệu lịch sử ghi: “Lúc bấy giờ ở huyện Phù Ly, đất Quy Nhơn có người tên là Nguyễn Nhạc khởi binh (…). Nguyên ông tổ 4 đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ cùng một tổ với Hồ Quý Ly ngày trước, người ở huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An, gặp lúc chúa Trịnh, chúa Nguyễn đánh nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây Sơn thuộc đất Quy Nhơn. Đến đời ông thân sinh là Hồ Phi Phúc dời nhà sang ở ấp Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn, sinh được 3 người con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ”. Trần Đình Kỳ trong bài Quê mẹ nhà Tây Sơn viết rõ: “Các tài liệu đã công bố cũng đều cho rằng tổ tiên của các thủ lĩnh Tây Sơn vốn họ Hồ ở Nghệ An. Đến giữa thế kỷ 17, ông tổ 4 đời của Nguyễn Huệ bị chúa Nguyễn bắt vào Đàng Trong cùng với nhiều tù binh khác đưa đi khai hoang lập ấp ở vùng Tây Sơn thượng đạo (phủ Quy Nhơn). Đến đời ông Hồ Phi Phúc lấy vợ là Nguyễn Thị Đồng (sinh các anh em Hồ Thơm), chuyển về ở quê vợ tại làng Phú Lạc thuộc Tây Sơn hạ đạo, ký ngụ tại quê vợ, quê mẹ (nay thuộc Bình Định). Theo Đại Nam nhất thống chí, đây là tục lệ phổ biến của người Bình Định xưa (…). Phú Lạc trở thành quê hương thứ hai của dòng họ Hồ ở Đàng Trong”.

Rất nhiều tác giả khác như Hoa Bằng, nhà gia phả học Nguyễn Đức Dụ, nhà sử học Nguyễn Phương, nhà văn Văn Tân, nhà thơ Lê Minh Quốc (qua bộ sách Kể chuyện danh nhân Việt Nam), nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, Phạm Văn Sơn (với các bài khảo về Tây Sơn) đều nhắc đến lai lịch họ Hồ (gốc Nghệ An) của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ. Vậy tại sao anh em họ Hồ lại đổi sang họ Nguyễn (là họ mẹ)?

Để trả lời, một số sự kiện lịch sử và bối cảnh thời trước đã được người họ Hồ thời nay dẫn chứng. Như chúa Nguyễn, hẳn nhiên phải để mắt chú ý đến các lưu dân đưa từ đất chúa Trịnh vào khai khẩn phía Nam. Quân Nguyễn không khỏi đề phòng tâm lý thù nghịch của các lưu dân bị đày xa xứ, bị đưa đi khai hoang ở chốn núi rừng xa lạ, vắng vẻ kia. Để tránh cặp mắt tập trung dò xét, nên khi khởi nghĩa, anh em Tây Sơn phải lấy họ mẹ (Nguyễn) thay vì họ gốc “mang sẵn” từ Nghệ An vào (Hồ). Việc thay tên đổi họ xét ra cũng chẳng lấy gì làm lạ, như Hồ Sĩ Giàng giải thích: “Có nơi, có lúc vì bị o ép, một số người phải đổi sang họ khác. Tuy vậy, chỉ có một số người thay tên đổi họ ở từng nơi, từng lúc, họ Hồ về cơ bản vẫn đứng vững. Có người đổi họ, gặp buổi hanh thông đã trở lại họ Hồ như Hồ Quý Ly (trước lấy họ Lê: Lê Quý Ly). Có người biết là dòng dõi họ Hồ nhưng vì nhiều lý do nên vẫn giữ họ mới đổi như trường hợp vua Quang Trung. Ngay cả gần đây, có một số người vì lý do chính trị phải đổi sang họ khác; nay đã trở lại họ Hồ như trường hợp ông Hồ Văn Phúc - con ông Hồ Văn An (ông An tham gia phong trào yêu nước của Nguyễn Thái Học, để trốn tránh sự truy lùng của thực dân Pháp đã đổi sang họ Nguyễn, nay hơn 50 năm, con ông đã lấy lại họ Hồ). Ngược lại, cũng có một số trường hợp vốn là họ Nguyễn, họ Hoàng… làm nghĩa tử cho họ Hồ (cháu ngoại) vì ơn sâu nghĩa nặng nên qua bao nhiêu đời vẫn giữ nguyên họ mẹ (Hồ). Một số người gốc họ Hồ, hoặc làm nghĩa tử, hoặc vì một lý do nào đó, đổi sang họ Nguyễn, họ Hà, họ Bùi, họ Mai, họ Vũ, họ Lê… nay vẫn giữ nguyên họ ấy”.

Riêng Nguyễn Huệ (Hồ Thơm) đổi họ đổi tên để tránh sự dò xét của quân Nguyễn vì đã từng là học trò cưng của một nhân sĩ có tư tưởng phản kháng đương thời là giáo Hiến. Giáo Hiến có người bạn rất thân, thuộc hàng “tứ trụ đại thần”(Nội hữu) dưới triều Võ Vương là Trương Văn Hạnh. Trương Văn Hạnh lúc bấy giờ chống lại sự lộng quyền của Trương Phúc Loan (cậu vua). Sau Trương Phúc Loan giết Trương Văn Hạnh, giáo Hiến thương tiếc người bạn tri kỷ, lại ngại sẽ có ngày đến lượt mình bị hại, nên đã bỏ Phú Xuân (Huế) vào sống ở ấp Yên Thái (Quy Nhơn), mở lớp dạy học. Trong số học trò có 3 anh em nhà Tây Sơn. Để tránh sự dòm ngó của quân Nguyễn lúc ban đầu khi thanh thế chưa lớn, có thể bất lợi, anh em Tây Sơn đổi từ họ Hồ sang họ Nguyễn. Điều này Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược nhận xét anh em ông Nhạc lúc đầu chiêu quân “mới lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ thu phục nhân tâm, vì rằng đất trong Nam thời ấy vẫn là đất của chúa Nguyễn!”.

Theo Bảo tàng Tây Sơn, tỉnh Bình Định, nguồn gốc gia tộc anh em Nhạc - Huệ - Lữ vốn dòng dõi họ Hồ ở Quỳnh Đôi, con cháu Hồ Thế Anh (còn gọi là Hồ Sĩ Anh, sinh 1618) trúng hội thi tam trường (tương đương phó bảng triều Nguyễn). Năm Vĩnh Thịnh thứ nhất đời Lê Thần Tông (1658) làm quan đến Hộ bộ Tả Thị Lang tước Diễn trạch hầu. Hồ Thế Anh sinh được 5 người con trai là Hồ Thế Viêm (sinh đồ), Hồ Phi Cơ (hội thi tam trường), Hồ Danh Lưu, Hồ Phi Tích (hoàng giáp) và Hồ Phi Đoan. Hồ Thế Viêm sinh Phi Khang.
Phi Khang sinh được 5 người con trai là Hồ Phi Trù, Hồ Phi Phú, Hồ Phi Thọ, Hồ Phi Phúc, Hồ Phi Huống. Từ Quỳnh Đôi, Hồ Thế Viêm dời nhà lên Nhân Lý (tức Nhân Sơn thuộc Quỳnh Hồng - Quỳnh Lưu Nghệ An), rồi lại đôn vào thôn Thái Lão, phủ Hưng Nguyên, Nghệ An. Từ Thái Lão, Hồ Phi Khang (nhiều sách chép là Hồ Phi Khanh), Hồ Phi Phúc di cư vào Đàng trong. Bước đầu làm ăn ở huyện Tuy Viễn (nay là huyện An Nhơn). Sau đó Hồ Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng ở Tây Sơn hạ sinh ra Nhạc, Huệ, Lữ và một gái út. Mộ của ông Hồ Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng còn di tích ở núi Long Cương thuộc làng Kiên Mỹ, Bình Khê, Bình Định.
Trích tài liệu của Hồ Sĩ Giàng
 

Bội Lan

Yếu sinh lý
Tao chỉ quan tâm Park Hwo của tao họ gì? Nguyễn hay Hồ? Vì cảm giác như đạt đc đỉnh vinh quang thì quay lại họ gốc. Chứ tao cũng đéo hiểu vì sao lấy tên đó luôn.
 

Lê Nữu Vượng

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Tao chỉ quan tâm Park Hwo của tao họ gì? Nguyễn hay Hồ? Vì cảm giác như đạt đc đỉnh vinh quang thì quay lại họ gốc. Chứ tao cũng đéo hiểu vì sao lấy tên đó luôn.
(ĐSCVN) - Tìm hiểu về danh xưng “Uncle Lake” càng làm cho chúng ta nhận thức sâu sắc thêm về tư tưởng, đạo đức, phong cách giản dị, trong sáng của Chủ tịch Uncle Lake, người đã dành cả cuộc đời vì dân, vì nước, vì độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.

Bộ sưu tập chữ ký của Chủ tịch Uncle Lake giai đoạn 1945 – 1969 (Ảnh chụp từ tài liệu trưng bày tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III)
Danh xưng “Hồ Quang” hay “Uncle Lake” ban đầu được Bác sử dụng như là một bí danh. Đó là thời điểm cuối năm 1938, từ Liên Xô trở lại Trung Quốc hoạt động, trong vai một Thiếu tá của Bát Lộ quân, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng cái tên “Hồ Quang” để công tác tại Phòng Cứu vong thuộc Văn phòng Bát Lộ quân ở Quế Lâm (Trung Quốc), nhiệm vụ cụ thể là Ủy viên y tế kiêm Ủy viên bích báo, tham gia lãnh đạo Phòng[1].
Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu, bốn biển tìm đường cứu nước, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc đã trở về Tổ quốc, ở tại hang Pác Bó, bản Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng để trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước. Ngày 13/8/1942, Nguyễn Ái Quốc quay lại Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội đoàn được chính Bác tổ chức ra trước đó) để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng Đồng minh, qua đó tìm kiếm sự ủng hộ cho cuộc cách mạng ở trong nước. Lúc này, cái tên “Uncle Lake” đã lần đầu tiên đã được Bác chính thức sử dụng trong các giấy tờ cá nhân. Chỉ ít ngày sau đó, ngày 29/8/1942, Uncle Lake đã bị Chính quyền Quốc dân Đảng bắt giữ và giam cầm hơn một năm[2]. Tập thơ “Nhật ký trong tù” được ra đời chính trong thời gian này. Từ đó, cái tên Uncle Lake được sử dụng thường xuyên hơn.
Vì sao lúc này Nguyễn Ái Quốc lại dùng danh xưng là “Uncle Lake”, trong đó “Hồ” là họ và “Chí Minh” là tên (người có họ là “Hồ”, tên là “Chí Minh”). Đơn giản là bởi lẽ Bác rất am hiểu văn hóa Trung Quốc, thông thạo tiếng Trung Quốc. Trong ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc, chữ “Hồ” còn có nghĩa là “râu” hàm ý chỉ những người lớn tuổi để râu; hoặc trong chữ “mơ hồ”. Người Trung Quốc nếu nói “già hồ” có nghĩa là nói về ông già có râu dài, giản dị, mơ hồ, có thể bắt gặp ở bất cứ đâu trong cuộc sống. Do vậy, Bác dùng họ “Hồ” đã thể hiện được phong cách giản dị, dễ hòa đồng, hòa nhập với dân chúng, lại có thể tránh được sự theo dõi của mật thám. Người Trung Quốc không xưng hô bằng tên gọi mà xưng hô bằng họ. Trong trường hợp bị mật thám tìm hỏi về một ông lão Hồ thì người dân cũng sẽ rất khó xác định được đó là “ông già râu dài” nào. Về tên gọi “Chí Minh”, chữ “Chí” trong “ý chí”, còn “Minh” là “sáng” hay trong “con đường sáng”. Bác dùng danh xưng “Uncle Lake” có hàm ý muốn nói rằng một người giản dị như bao người dân Việt Nam yêu nước khác, nhưng có đầy ý chí và lòng quyết tâm đi theo con đường sáng, con đường cách mạng vô sản chân chính đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam…
Ngày 2/9/1945, trong phần cuối bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chữ ký “Uncle Lake” đã được Chủ tịch Uncle Lake chính thức sử dụng cùng với chữ ký của 13 người khác là những vị Bộ trưởng đầu tiên trong Chính phủ mới (gồm: Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn, Dương Đức Hiền, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Mạnh Hà, Cù Huy Cận, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Xuân, Vũ Trọng Khánh, Phạm Văn Đồng, Đào Trọng Kim, Vũ Đình Hòe, Lê Văn Hiến)[3].
Vậy là bắt đầu từ ngày 2/9/1945, với cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, danh xưng “Uncle Lake” đã chính thức được sử dụng công khai. Nói “Chủ tịch Uncle Lake” là diễn đạt theo ngữ pháp của người Việt Nam, còn nói “Hồ Chủ tịch” là diễn đạt theo ngữ pháp của người Trung Quốc.
Từ thời điểm sau ngày thành lập nước 2/9/1945, cho đến ngày 25/8/1969, trong tất cả văn bản của mình, Chủ tịch Uncle Lake đều sử dụng chữ ký “Uncle Lake” cho danh xưng chính thức của mình trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 25/8/1969, Chủ tịch Uncle Lake đã viết “Thư trả lời Tổng thống Mỹ Risớt M.Níchxơn”. Trong bức thư này, Người đã nhấn mạnh: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất yêu chuộng hòa bình, một nền hòa bình chân chính trong độc lập và tự do thật sự. Nhân dân Việt Nam quyết chiến đấu đến cùng, không sợ hy sinh gian khổ, để bảo vệ Tổ quốc và các quyền dân tộc thiêng liêng của mình…”. Cuối thư, vẫn như thường lệ, Bác ký tên “Uncle Lake”[4]. Đây là văn bản chính thức cuối cùng của Chủ tịch Uncle Lake trước khi Bác qua đời, ngày 2/9/1969.
Chỉ một vài lần hiếm hoi vào các năm 1947, 1948, Chủ tịch Uncle Lake sử dụng chữ ký với duy nhất một chữ “H”, là chữ cái đầu tiên trong danh xưng “Uncle Lake”.
Từ ngày 20/10 đến ngày 20/11/1987, trong khóa họp lần thứ 24 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã thông qua Nghị quyết số 24C/18.6.5, lấy năm 1990 nhân dịp Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Uncle Lake, để tôn vinh Chủ tịch Uncle Lake là "Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam", góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Uncle Lake là tài sản tinh thần to lớn của Đảng cơm sườn Việt Nam và dân tộc Việt Nam, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
–––––––––––––––
[1], [2]. Uncle Lake - Biên niên tiểu sử (Tập 2: 1930 – 1945). Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2009
[3]. Uncle Lake - Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Tập 4, Trang 1-3, năm 2011
[4]. Uncle Lake - Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Tập 15, Trang 602-603, năm 2011
 

atlas01

Tiến sĩ
Manh mối xuất hiện của dòng họ Hồ (Tây Sơn) trên đất Quy Nhơn - Bình Định xưa kia liên quan đến cuộc nội chiến khốc liệt trong lịch sử nước ta thời Trịnh - Nguyễn phân tranh thế kỷ 17. Bấy giờ quân Trịnh chiếm Đàng Ngoài, quân Nguyễn ở Đàng Trong. Hai bên giành đất, tranh dân, đánh nhau 7 lần trong khoảng 45 năm, tính từ trận đầu tiên năm 1627 đến trận cuối vào 1672. Khoảng thời gian này, họ Hồ đã có mặt trên đất Nghệ An (thuộc chúa Trịnh) từ 700 năm trước, mà ông tổ khai sáng là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật.

Chúng tôi đã tiếp xúc với một số bà con họ Hồ ở miền Trung, miền Bắc, cũng như tại TP.HCM, và được cho xem nhiều tài liệu về gia phả, một số sử liệu và các tác phẩm liên quan. Trong số đó có cuốn Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam do Hồ Sĩ Giàng biên soạn đã tái bản đến lần thứ 7 bởi NXB Văn hóa thông tin và NXB Tổng hợp TP.HCM, được Ban liên lạc họ Hồ toàn quốc xem là “tiếng nói chính thức” phổ biến trong mỗi kỳ họp mặt. Trong cuốn sách có viết rõ: “Họ Hồ là họ lâu đời ở xứ Nghệ. Kể từ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật lập nghiệp ở hương Bào Đột (thuộc xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) đến nay đã trên 1.000 năm (…). Hồ Hưng Dật người Triết Giang. Triết Giang xưa (Ngô Việt) nằm trong dải đất Bách Việt, bị Hán tộc tràn xuống Hán hóa (là tộc Việt cuối cùng bị Hán hóa). Dân tộc Việt Nam là Lạc Việt (và là dân tộc) duy nhất không bị Hán hóa. Các nhà khảo cổ học, sử học đều xác nhận tổ tiên xa xưa của người Bách Việt và Lạc Việt có quan hệ mật thiết với nhau. Vậy Hồ Hưng Dật nguồn gốc là người tộc Việt thuộc phương Nam Trung Quốc (…) đã đặt chân đến Bào Đột (khoảng năm 947-951) xây dựng nền móng đầu tiên của dòng họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Ông là “một trí thức lớn của thời đại ấy, đã đậu trạng nguyên, đã làm quan, nhưng đã lui về trở thành một nhân sĩ ẩn dật, gắn bó với nhân dân, không tranh bá đồ vương. Con cháu ông phát triển ở hai châu Hoan và Diễn (Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay - NV) và nhiều nơi trên đất nước”.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hồ Hưng Dật được cử sang làm thái thú ở châu Diễn, song: “cũng có thuyết cho rằng ông sang Giao Châu (Việt Nam) lánh nạn và được cử làm quan. Quốc sử triều Nguyễn viết ông trôi dạt và được làm quan ở châu Diễn. Thuyết này xét ra có phần hợp lý hơn”. Ông vốn đồng liêu với Đinh Công Trứ (thân sinh Đinh Bộ Lĩnh), vì thế Đinh Bộ Lĩnh có biết ông. Khi Đinh Bộ Lĩnh muốn dấy binh dẹp các sứ quân đã đến gặp Hồ Hưng Dật thăm dò xem ông có ý dấy quân hay không. Ông đã thổ lộ với Đinh Bộ Lĩnh chỉ mong làm tròn phận sự của người dân, “để cho Đinh Bộ Lĩnh yên lòng, ông giơ kiếm lên thề “Vạn đại vi dân”, nghĩa là vạn đời làm dân, hay vạn đời vì dân. Ông lo việc cày ruộng, chiêu mộ dân phiêu tán, lập ấp trại”.

Gốc của họ Hồ là ở đất Bào Đột (Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) với hai tông phái. Một tông phái ở châu Diễn (trưởng) và một ở Thanh Hóa (thứ). Và cháu 15 đời của tổ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật có: Hồ Quý Ly, Trạng nguyên Hồ Tông Thốc, Quản lĩnh hầu Hồ Hân, Hoan quận công Hồ Nhân và cháu 27 đời có hoàng giáp Hồ Sĩ Đống, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Tư nhân hầu Hồ Phi Tử và anh hùng dân tộc: vua Quang Trung (tức Hồ Thơm - Nguyễn Huệ). Theo Tạ Chí Đại Trường: “Có một điều chắc chắn là tổ tiên Tây Sơn gốc ở Nghệ An. Đại Nam nhất thống chí cho biết Nghệ An có những chi nhánh họ Hồ, đỗ đại khoa làm quan lớn. Chiến tranh 1945-1954 còn may mắn giữ được Hồ tôn thế phả để biết thêm được một Hồ Xuân Hương trong dòng dõi danh gia ấy (...): “Vậy thì khoảng 100 năm sau khi vào Nam, họ Hồ Nhân Sơn có thể đã được an sáp tại làng Tây Sơn thuộc huyện Phù Ly, qua các đời thì sinh ra Nhạc và hai người em là Bình (tức Hồ Thơm - Nguyễn Huệ) và Lữ”.
Chính khoảng thời gian khói lửa tương tàn Trịnh - Nguyễn đang bốc cao ấy (1655 - 1657), hạt giống họ Hồ đã theo ngọn gió ly loạn bay tản về phía Nam. Trong số người bị quân Nguyễn đưa đi khai khẩn ruộng đất tại ấp Tây Sơn có Hồ Phi Khanh, là ông tổ 4 đời của anh em nhà Tây Sơn. Một tài liệu lịch sử ghi: “Lúc bấy giờ ở huyện Phù Ly, đất Quy Nhơn có người tên là Nguyễn Nhạc khởi binh (…). Nguyên ông tổ 4 đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ cùng một tổ với Hồ Quý Ly ngày trước, người ở huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An, gặp lúc chúa Trịnh, chúa Nguyễn đánh nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây Sơn thuộc đất Quy Nhơn. Đến đời ông thân sinh là Hồ Phi Phúc dời nhà sang ở ấp Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn, sinh được 3 người con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ”. Trần Đình Kỳ trong bài Quê mẹ nhà Tây Sơn viết rõ: “Các tài liệu đã công bố cũng đều cho rằng tổ tiên của các thủ lĩnh Tây Sơn vốn họ Hồ ở Nghệ An. Đến giữa thế kỷ 17, ông tổ 4 đời của Nguyễn Huệ bị chúa Nguyễn bắt vào Đàng Trong cùng với nhiều tù binh khác đưa đi khai hoang lập ấp ở vùng Tây Sơn thượng đạo (phủ Quy Nhơn). Đến đời ông Hồ Phi Phúc lấy vợ là Nguyễn Thị Đồng (sinh các anh em Hồ Thơm), chuyển về ở quê vợ tại làng Phú Lạc thuộc Tây Sơn hạ đạo, ký ngụ tại quê vợ, quê mẹ (nay thuộc Bình Định). Theo Đại Nam nhất thống chí, đây là tục lệ phổ biến của người Bình Định xưa (…). Phú Lạc trở thành quê hương thứ hai của dòng họ Hồ ở Đàng Trong”.

Rất nhiều tác giả khác như Hoa Bằng, nhà gia phả học Nguyễn Đức Dụ, nhà sử học Nguyễn Phương, nhà văn Văn Tân, nhà thơ Lê Minh Quốc (qua bộ sách Kể chuyện danh nhân Việt Nam), nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, Phạm Văn Sơn (với các bài khảo về Tây Sơn) đều nhắc đến lai lịch họ Hồ (gốc Nghệ An) của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ. Vậy tại sao anh em họ Hồ lại đổi sang họ Nguyễn (là họ mẹ)?

Để trả lời, một số sự kiện lịch sử và bối cảnh thời trước đã được người họ Hồ thời nay dẫn chứng. Như chúa Nguyễn, hẳn nhiên phải để mắt chú ý đến các lưu dân đưa từ đất chúa Trịnh vào khai khẩn phía Nam. Quân Nguyễn không khỏi đề phòng tâm lý thù nghịch của các lưu dân bị đày xa xứ, bị đưa đi khai hoang ở chốn núi rừng xa lạ, vắng vẻ kia. Để tránh cặp mắt tập trung dò xét, nên khi khởi nghĩa, anh em Tây Sơn phải lấy họ mẹ (Nguyễn) thay vì họ gốc “mang sẵn” từ Nghệ An vào (Hồ). Việc thay tên đổi họ xét ra cũng chẳng lấy gì làm lạ, như Hồ Sĩ Giàng giải thích: “Có nơi, có lúc vì bị o ép, một số người phải đổi sang họ khác. Tuy vậy, chỉ có một số người thay tên đổi họ ở từng nơi, từng lúc, họ Hồ về cơ bản vẫn đứng vững. Có người đổi họ, gặp buổi hanh thông đã trở lại họ Hồ như Hồ Quý Ly (trước lấy họ Lê: Lê Quý Ly). Có người biết là dòng dõi họ Hồ nhưng vì nhiều lý do nên vẫn giữ họ mới đổi như trường hợp vua Quang Trung. Ngay cả gần đây, có một số người vì lý do chính trị phải đổi sang họ khác; nay đã trở lại họ Hồ như trường hợp ông Hồ Văn Phúc - con ông Hồ Văn An (ông An tham gia phong trào yêu nước của Nguyễn Thái Học, để trốn tránh sự truy lùng của thực dân Pháp đã đổi sang họ Nguyễn, nay hơn 50 năm, con ông đã lấy lại họ Hồ). Ngược lại, cũng có một số trường hợp vốn là họ Nguyễn, họ Hoàng… làm nghĩa tử cho họ Hồ (cháu ngoại) vì ơn sâu nghĩa nặng nên qua bao nhiêu đời vẫn giữ nguyên họ mẹ (Hồ). Một số người gốc họ Hồ, hoặc làm nghĩa tử, hoặc vì một lý do nào đó, đổi sang họ Nguyễn, họ Hà, họ Bùi, họ Mai, họ Vũ, họ Lê… nay vẫn giữ nguyên họ ấy”.

Riêng Nguyễn Huệ (Hồ Thơm) đổi họ đổi tên để tránh sự dò xét của quân Nguyễn vì đã từng là học trò cưng của một nhân sĩ có tư tưởng phản kháng đương thời là giáo Hiến. Giáo Hiến có người bạn rất thân, thuộc hàng “tứ trụ đại thần”(Nội hữu) dưới triều Võ Vương là Trương Văn Hạnh. Trương Văn Hạnh lúc bấy giờ chống lại sự lộng quyền của Trương Phúc Loan (cậu vua). Sau Trương Phúc Loan giết Trương Văn Hạnh, giáo Hiến thương tiếc người bạn tri kỷ, lại ngại sẽ có ngày đến lượt mình bị hại, nên đã bỏ Phú Xuân (Huế) vào sống ở ấp Yên Thái (Quy Nhơn), mở lớp dạy học. Trong số học trò có 3 anh em nhà Tây Sơn. Để tránh sự dòm ngó của quân Nguyễn lúc ban đầu khi thanh thế chưa lớn, có thể bất lợi, anh em Tây Sơn đổi từ họ Hồ sang họ Nguyễn. Điều này Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược nhận xét anh em ông Nhạc lúc đầu chiêu quân “mới lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ thu phục nhân tâm, vì rằng đất trong Nam thời ấy vẫn là đất của chúa Nguyễn!”.

Theo Bảo tàng Tây Sơn, tỉnh Bình Định, nguồn gốc gia tộc anh em Nhạc - Huệ - Lữ vốn dòng dõi họ Hồ ở Quỳnh Đôi, con cháu Hồ Thế Anh (còn gọi là Hồ Sĩ Anh, sinh 1618) trúng hội thi tam trường (tương đương phó bảng triều Nguyễn). Năm Vĩnh Thịnh thứ nhất đời Lê Thần Tông (1658) làm quan đến Hộ bộ Tả Thị Lang tước Diễn trạch hầu. Hồ Thế Anh sinh được 5 người con trai là Hồ Thế Viêm (sinh đồ), Hồ Phi Cơ (hội thi tam trường), Hồ Danh Lưu, Hồ Phi Tích (hoàng giáp) và Hồ Phi Đoan. Hồ Thế Viêm sinh Phi Khang.
Phi Khang sinh được 5 người con trai là Hồ Phi Trù, Hồ Phi Phú, Hồ Phi Thọ, Hồ Phi Phúc, Hồ Phi Huống. Từ Quỳnh Đôi, Hồ Thế Viêm dời nhà lên Nhân Lý (tức Nhân Sơn thuộc Quỳnh Hồng - Quỳnh Lưu Nghệ An), rồi lại đôn vào thôn Thái Lão, phủ Hưng Nguyên, Nghệ An. Từ Thái Lão, Hồ Phi Khang (nhiều sách chép là Hồ Phi Khanh), Hồ Phi Phúc di cư vào Đàng trong. Bước đầu làm ăn ở huyện Tuy Viễn (nay là huyện An Nhơn). Sau đó Hồ Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng ở Tây Sơn hạ sinh ra Nhạc, Huệ, Lữ và một gái út. Mộ của ông Hồ Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng còn di tích ở núi Long Cương thuộc làng Kiên Mỹ, Bình Khê, Bình Định.
Trích tài liệu của Hồ Sĩ Giàng
Câu chuyện anh em Huệ gốc họ Hồ không có tài liệu nào xác nhận cả.
Tất cả đều là nghi vấn.
Thứ nhất trong nhà Huệ ngoài 3 anh em còn có Nguyễn Quang Hoa là anh cả cha của Nguyễn Quang Hiển.
Hoa không tham gia khởi nghĩa
Chứng tỏ gia tộc này họ Nguyễn Quang là họ kép có từ trước không phải khi khởi nghĩa mới đổi họ
Cái tên Hồ Thơm của Huệ cũng là bịa đặt do các nhà nghiên cứu tự gán cho khi suy luận từ chi tiết Huệ khi bé tên Thơm và có gốc họ Hồ thế là họ tự gán ghép thành Hồ Thơm.
Hoa, Huệ đều họ Nguyễn Quang.
Và đẻ con đều đặt họ Nguyễn Quang
Con của Hoa là Nguyễn Quang Hiển
Con của Huệ là Nguyễn Quang Thùy Quang Toản, Quang Bàn, Quang Thiệu...

Nguyễn Quang Hiển khi sang nhà Thanh có tiết lộ về gia đình như sau
Trong bữa ăn, Nguyễn Quang Hiển cho Phúc Khang An biết ông ta là "đích trưởng điệt [cháu lớn nhất thuộc dòng chính), Nguyễn Huệ nuôi dạy như con. Cha tôi là Nguyễn Quang Hoa 阮光華 mất sớm, chú thứ hai là Quang Nhạc 元, hiện ở Quảng Nam, chú thứ ba là Quang Bình + tức Nguyễn Huệ, chú thứ tư là Quang Thái 光善 cũng sống ở Quảng Nam, trên núi Tây Sơn
 
Chỉnh sửa lần cuối:

zzz_n3r0_zzz

Yếu sinh lý
Câu chuyện anh em Huệ gốc họ Hồ không có tài liệu nào xác nhận cả.
Tất cả đều là nghi vấn.
Thứ nhất trong nhà Huệ ngoài 3 anh em còn có Nguyễn Quang Hoa là anh cả cha của Nguyễn Quang Hiển.
Hoa không tham gia khởi nghĩa
Chứng tỏ gia tộc này họ Nguyễn Quang là họ kép có từ trước không phải khi khởi nghĩa mới đổi họ
Cái tên Hồ Thơm của Huệ cũng là bịa đặt do các nhà nghiên cứu tự gán cho khi suy luận từ chi tiết Huệ khi bé tên Thơm và có họ Hồ thế là họ tự gán ghép thành Hồ Thơm.
Hoa Huệ đều họ Nguyễn Quang.
Và đẻ con đều đặt họ Nguyễn Quang
Con của Hoa là Nguyễn Quang Hiển
Con của Huệ là Nguyễn Quang Thùy Quang Toản Quang Bàn Quang Thiện

Nguyễn Quang Hiển khi sang nhà Thanh có tiết lộ về gia đình như sau
Trong bữa ăn, Nguyễn Quang Hiển cho Phúc Khang An biết ông ta là "đích trưởng điệt [cháu lớn nhất thuộc dòng chính), Nguyễn Huệ nuôi dạy như con. Cha tôi là Nguyễn Quang Hoa 阮光華 mất sớm, chú thứ hai là Quang Nhạc 元, hiện ở Quảng Nam, chú thứ ba là Quang Bình + tức Nguyễn Huệ, chú thứ tư là Quang Thái 光善 cũng sống ở Quảng Nam, trên núi Tây Sơn
Á đù, bản đồ với máy tính qua đây hết lun r ah? Ngonnnn
 

themmotlandau

Yếu sinh lý
Câu chuyện anh em Huệ gốc họ Hồ không có tài liệu nào xác nhận cả.
Tất cả đều là nghi vấn.
Thứ nhất trong nhà Huệ ngoài 3 anh em còn có Nguyễn Quang Hoa là anh cả cha của Nguyễn Quang Hiển.
Hoa không tham gia khởi nghĩa
Chứng tỏ gia tộc này họ Nguyễn Quang là họ kép có từ trước không phải khi khởi nghĩa mới đổi họ
Cái tên Hồ Thơm của Huệ cũng là bịa đặt do các nhà nghiên cứu tự gán cho khi suy luận từ chi tiết Huệ khi bé tên Thơm và có họ Hồ thế là họ tự gán ghép thành Hồ Thơm.
Hoa Huệ đều họ Nguyễn Quang.
Và đẻ con đều đặt họ Nguyễn Quang
Con của Hoa là Nguyễn Quang Hiển
Con của Huệ là Nguyễn Quang Thùy Quang Toản Quang Bàn Quang Thiện

Nguyễn Quang Hiển khi sang nhà Thanh có tiết lộ về gia đình như sau
Trong bữa ăn, Nguyễn Quang Hiển cho Phúc Khang An biết ông ta là "đích trưởng điệt [cháu lớn nhất thuộc dòng chính), Nguyễn Huệ nuôi dạy như con. Cha tôi là Nguyễn Quang Hoa 阮光華 mất sớm, chú thứ hai là Quang Nhạc 元, hiện ở Quảng Nam, chú thứ ba là Quang Bình + tức Nguyễn Huệ, chú thứ tư là Quang Thái 光善 cũng sống ở Quảng Nam, trên núi Tây Sơn
Thời kỳ đầu khi Gia Long lên ngôi, đã chỉ dụ cho dân địa phương rằng: “Hễ ai là bà con tộc thuộc của Tây Sơn ra khai báo, sẽ được trọng dụng bổ làm quan”. Vậy, thực hư chuyện này thế nào?
Theo sách Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung của PGS.TS sử học Đỗ Bang, vụ tàn sát dòng dõi Tây Sơn của Vua Gia Long được các bô lão truyền rằng: Sau khi nghe chỉ dụ của nhà vua, các tộc thuộc Tây Sơn ở Hưng Nguyên (tỉnh Nghệ An) tưởng thật, đã ra khai báo, nhưng không ngờ tất cả đều bị bắt và bị giết. Hiện nay, có 24 gia đình gốc họ Hồ đều có người chết trong ngày đại tang Tây Sơn, kỵ vào ngày 20 tháng 10 âm lịch hàng năm.

Chuyện Gia Long giết cả nhà mấy người này phải đổi họ ghi thẳng vào gia phả thì không bao giờ có chuyện giả với nhầm. Vì đó là thâm thù huyết hận với vua đương thời. Ghi vào bị phát hiện thì chắc chắn chết thế mà họ còn dám ghi khi đã phải đổi họ.
 

atlas01

Tiến sĩ
Thời kỳ đầu khi Gia Long lên ngôi, đã chỉ dụ cho dân địa phương rằng: “Hễ ai là bà con tộc thuộc của Tây Sơn ra khai báo, sẽ được trọng dụng bổ làm quan”. Vậy, thực hư chuyện này thế nào?
Theo sách Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung của PGS.TS sử học Đỗ Bang, vụ tàn sát dòng dõi Tây Sơn của Vua Gia Long được các bô lão truyền rằng: Sau khi nghe chỉ dụ của nhà vua, các tộc thuộc Tây Sơn ở Hưng Nguyên (tỉnh Nghệ An) tưởng thật, đã ra khai báo, nhưng không ngờ tất cả đều bị bắt và bị giết. Hiện nay, có 24 gia đình gốc họ Hồ đều có người chết trong ngày đại tang Tây Sơn, kỵ vào ngày 20 tháng 10 âm lịch hàng năm.

Chuyện Gia Long giết cả nhà mấy người này phải đổi họ ghi thẳng vào gia phả thì không bao giờ có chuyện giả với nhầm. Vì đó là thâm thù huyết hận với vua đương thời. Ghi vào bị phát hiện thì chắc chắn chết thế mà họ còn dám ghi khi đã phải đổi họ.
Các bô lão truyền rằng.
Theo sách do phó giáo sư tiến sĩ sử cách mạng viết.
Vâng hai nguồn vĩ đại quá
Tao sợ những nguồn như thế này.
Biết Gia Long thù Tây Sơn mà cũng tin sẽ được cho làm quan mà ra khai báo.
Trong khi Tây Sơn bị tru di cữu tộc.
Câu chuyện tào lao phét lác thế mà cũng lắm đứa tin
 

themmotlandau

Yếu sinh lý
Các bô lão truyền rằng.
Theo sách do phó giáo sư tiến sĩ sử cách mạng viết.
Vâng hai nguồn vĩ đại quá
Tao sợ những nguồn như thế này
Chính sử chép Huệ gốc họ Hồ. Gia phả cũng chép. Mày phủ cả hai luôn thì m thích nguồn nào {baffle}

Còn vụ gia phả, riêng thâm thù diệt tộc thì không chép bừa bao giờ cả. Nhất là thù với vua đương triều.
 

atlas01

Tiến sĩ
Chính sử chép Huệ gốc họ Hồ. Gia phả cũng chép. Mày phủ cả hai luôn thì m thích nguồn nào {baffle}

Còn vụ gia phả, riêng thâm thù diệt tộc thì không chép bừa bao giờ cả. Nhất là thù với vua đương triều.
Chính sử nào chép Huệ gốc họ Hồ???
Vui lòng trích dẫn sử liệu
 

themmotlandau

Yếu sinh lý
Chính sử nào chép Huệ gốc họ Hồ???
Vui lòng trích dẫn sử liệu
“Tây Sơn tam kiệt” là tên gọi dành cho ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Theo sử sách, tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ (sách Hoàng Lê nhất thống chí cho rằng, nhà Tây Sơn thuộc dòng dõi Hồ Quý Ly) ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Tổ quán ở dưới chân hòn Thái Sơn, một hòn núi nhỏ đứng bên cạnh hòn Ðại Hải, một danh sơn tỉnh Nghệ An.
thích cãi cùn thì tao chơi đến cùng luôn
 

atlas01

Tiến sĩ
“Tây Sơn tam kiệt” là tên gọi dành cho ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Theo sử sách, tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ (sách Hoàng Lê nhất thống chí cho rằng, nhà Tây Sơn thuộc dòng dõi Hồ Quý Ly) ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Tổ quán ở dưới chân hòn Thái Sơn, một hòn núi nhỏ đứng bên cạnh hòn Ðại Hải, một danh sơn tỉnh Nghệ An.
thích cãi cùn thì tao chơi đến cùng luôn
Vâng Hoàng Lê nhất thống chí cho rằng...
Cái này gọi là sử liệu
Còn theo sử sách nào thì không biết
 

themmotlandau

Yếu sinh lý
Vâng Hoàng Lê nhất thống chí cho rằng...
Cái này gọi là sử liệu
Còn theo sử sách nào thì không biết
mày thiếu nguồn gia phả nữa kìa, nên nhớ gia phả không bao giờ ghi bừa, nhất là thù với vua đương triều.
còn hlntc được ghi bởi quan lại nhà nguyễn, từ thế lực đối lập với tây sơn luôn đấy nhé
 

themmotlandau

Yếu sinh lý
1/ Sách “Nghệ An ký” của Bùi Dương Lịch, khi viết về núi Đại Hải có đoạn:

“大海山…東距魚海可五六十里其間為真祿縣地皆沙土蓋上古桑鹵變移故此山有大海之名

山南下為台峰在蔡老社是西山阮岳祖貫岳自言其四世祖流寓于歸仁府符離縣西山寨” (1)

Phiên âm: “Đại Hải sơn… Đông cự Ngư Hải khả ngũ lục lý. Kỳ gian vi Chân Lộc huyện địa, giai sa thổ. Cái thượng cổ tang lỗ biến di. Cố thử sơn hữu Đại Hải chi danh. Nam sơn hạ vi Thai phong, tại Thái Lão xã thị Tây Sơn Nguyễn Nhạc tổ quán. Nhạc tự ngôn, kỳ tứ thế tổ lưu ngụ vu Quy Nhơn phủ, Phù Ly huyện, Tây Sơn trại…”. Dịch nghĩa: “Núi Đại Hải… cách biển Ngư năm sáu mươi dặm về phía đông. Khoảng giữa là đất huyện Nghi Lộc, toàn là do cát bồi. Ngày xưa chỗ ấy là biển mặn sau biến thành bãi. Cho nên núi có tên Đại Hải. Phía nam núi Đại Hải, thấp hơn là ngọn núi Thai tại xã Thái Lão, đó là tổ quán của Tây Sơn Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc tự nói tổ 4 đời của mình di cư đến trại Tây Sơn, huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn…”.

Đây là tư liệu rất đáng tin cậy, vì Tiến sỹ Bùi Dương Lịch (1757-1828) chỉ kém Nguyễn Huệ, em Nguyễn Nhạc có bốn tuổi. Từng làm quan dưới triều Vua Quang Trung, và triều Nguyễn. Cuốn “Nghệ An ký” được biên soạn khi Bùi Dương Lịch làm Đốc học Nghệ An, khoảng từ năm 1805 - 1808, lúc Vua Gia Long mới lên ngôi. Chắc chắn ông biết rõ tổ quán của Nguyễn Huệ ở xã Thái Lão.

2/ Sách “An Tĩnh cổ lục” của Le Breton, nguyên Đốc học Trường Quốc học Vinh viết trong thời thuộc Pháp, ở Chương II, mục I: Những danh lam và thắng cảnh, có đoạn: “Làng Đông Thai nằm phía Nam của núi Đại Hải. Đó là cái nôi của dòng họ Tây Sơn” (2). Làng Đông Thai là ngôi làng nằm phía đông núi Thai, tên Nôm là làng Kẻ Thai, tên chữ là Thái Xá.

3/ Sách “Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung” của Đỗ Bang, có đoạn “Năm 1789, Vua Quang Trung truyền cho dân xã Thái Lão tu tạo tổ miếu để phụng tự. Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ thì di tích tổ miếu ở Thái lão cũng bị triệt hạ. Hiện nay ở địa phương còn lưu lại nhiều truyền thuyết về Tổ Tây Sơn. Trong đó bài vè xã Thái lão có hai câu đầu: Xã Thái Lão phát Vương, trai anh hùng tuấn kiệt”. (3)

Hiện ở cánh đồng Khuông Ràn (địa phận làng Thái Xá cũ) còn dấu tích một ngôi miếu cổ chân núi Thai. Ông Nguyễn Quốc Phòng (sinh 1943), nguyên Bí thư Đảng ủy xã Hưng Đạo cho biết, thuở chăn trâu còn thấy dấu vết nền móng ngôi miếu cổ. Dấu tích đó đã biến mất khi đơn vị Kho Công binh đào ao nuôi cá. Duy có ngôi mộ cổ, tương truyền là mộ Cố Thông, người trông coi miếu, không có vợ con, đã được đơn vị tôn tạo đẹp đẽ.

4/ Sách “Các trấn, tổng, xã, danh bị lãm” xuất bản triều Vua Gia Long chép về huyện Hưng Nguyên, xã Thái Lão bị xóa tên trong tổng Đô Yên mà đưa vào diện các xã thôn bị phiêu bạt.
Vâng Hoàng Lê nhất thống chí cho rằng...
Cái này gọi là sử liệu
Còn theo sử sách nào thì không biết
Theo gia phả họ Hồ ở xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu thì cụ Hồ Thế Anh (Phó bảng) sinh được 5 người con trai. Trưởng nam là Hồ Thế Viêm (Sinh đồ) dời nhà lên làng Nhân Lý (nay thuộc Quỳnh Hồng), sau đó lại dời vào xã Thái Lão, huyện Hưng Nguyên.

Đoạn sau đây của gia phả họ Hồ ở Quỳnh Đôi là không hợp lý: Hồ Thế Viêm sinh một con trai là Hồ Phi Khang. Hồ Phi Khang sinh 5 con trai trong đó có Hồ Phi Phúc. Hai cha con Hồ Phi Khang và Hồ Phi Phúc di cư vào Nam lập nghiệp. Hồ Phi Phúc lấy vợ họ Nguyễn sinh ra Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ, … Không hợp lý, bởi vì, dân Hưng Nguyên không thể tự vào Nam trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Theo Địa chí văn hóa Hưng Nguyên, khi quân chúa Nguyễn chiếm được 7 huyện nam sông Lam, từ năm1655 đến năm 1660, đã bắt một số người dân Hưng Nguyên di cư vào Nam khai hoang. Trong đó có người họ Hồ. Từ năm 1665 đến năm 1753 - năm sinh Nguyễn Huệ, cách nhau gần 90 năm. Do đó người họ Hồ vào Nam phải là Tổ bốn đời của Nguyễn Huệ, như câu trong Nghệ An ký là “Nguyễn Nhạc tự nói Tổ bốn đời của mình di cư đến trại Tây Sơn”.

Từ những tư liệu và suy luận có lý như trên có thể khẳng định Tổ năm đời của Vua Quang Trung có mộ ở làng Thái Xá, xã Thái Lão là Hồ Thế Viêm, Sinh đồ triều Lê Trung Hưng. Tổ bốn đời, con của Hồ Thế Viêm vào Nam là Hồ Phi Long hoặc Hồ Phi Khang cần xác minh thêm./.
 

atlas01

Tiến sĩ
1/ Sách “Nghệ An ký” của Bùi Dương Lịch, khi viết về núi Đại Hải có đoạn:

“大海山…東距魚海可五六十里其間為真祿縣地皆沙土蓋上古桑鹵變移故此山有大海之名

山南下為台峰在蔡老社是西山阮岳祖貫岳自言其四世祖流寓于歸仁府符離縣西山寨” (1)

Phiên âm: “Đại Hải sơn… Đông cự Ngư Hải khả ngũ lục lý. Kỳ gian vi Chân Lộc huyện địa, giai sa thổ. Cái thượng cổ tang lỗ biến di. Cố thử sơn hữu Đại Hải chi danh. Nam sơn hạ vi Thai phong, tại Thái Lão xã thị Tây Sơn Nguyễn Nhạc tổ quán. Nhạc tự ngôn, kỳ tứ thế tổ lưu ngụ vu Quy Nhơn phủ, Phù Ly huyện, Tây Sơn trại…”. Dịch nghĩa: “Núi Đại Hải… cách biển Ngư năm sáu mươi dặm về phía đông. Khoảng giữa là đất huyện Nghi Lộc, toàn là do cát bồi. Ngày xưa chỗ ấy là biển mặn sau biến thành bãi. Cho nên núi có tên Đại Hải. Phía nam núi Đại Hải, thấp hơn là ngọn núi Thai tại xã Thái Lão, đó là tổ quán của Tây Sơn Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc tự nói tổ 4 đời của mình di cư đến trại Tây Sơn, huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn…”.

Đây là tư liệu rất đáng tin cậy, vì Tiến sỹ Bùi Dương Lịch (1757-1828) chỉ kém Nguyễn Huệ, em Nguyễn Nhạc có bốn tuổi. Từng làm quan dưới triều Vua Quang Trung, và triều Nguyễn. Cuốn “Nghệ An ký” được biên soạn khi Bùi Dương Lịch làm Đốc học Nghệ An, khoảng từ năm 1805 - 1808, lúc Vua Gia Long mới lên ngôi. Chắc chắn ông biết rõ tổ quán của Nguyễn Huệ ở xã Thái Lão.

2/ Sách “An Tĩnh cổ lục” của Le Breton, nguyên Đốc học Trường Quốc học Vinh viết trong thời thuộc Pháp, ở Chương II, mục I: Những danh lam và thắng cảnh, có đoạn: “Làng Đông Thai nằm phía Nam của núi Đại Hải. Đó là cái nôi của dòng họ Tây Sơn” (2). Làng Đông Thai là ngôi làng nằm phía đông núi Thai, tên Nôm là làng Kẻ Thai, tên chữ là Thái Xá.

3/ Sách “Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung” của Đỗ Bang, có đoạn “Năm 1789, Vua Quang Trung truyền cho dân xã Thái Lão tu tạo tổ miếu để phụng tự. Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ thì di tích tổ miếu ở Thái lão cũng bị triệt hạ. Hiện nay ở địa phương còn lưu lại nhiều truyền thuyết về Tổ Tây Sơn. Trong đó bài vè xã Thái lão có hai câu đầu: Xã Thái Lão phát Vương, trai anh hùng tuấn kiệt”. (3)

Hiện ở cánh đồng Khuông Ràn (địa phận làng Thái Xá cũ) còn dấu tích một ngôi miếu cổ chân núi Thai. Ông Nguyễn Quốc Phòng (sinh 1943), nguyên Bí thư Đảng ủy xã Hưng Đạo cho biết, thuở chăn trâu còn thấy dấu vết nền móng ngôi miếu cổ. Dấu tích đó đã biến mất khi đơn vị Kho Công binh đào ao nuôi cá. Duy có ngôi mộ cổ, tương truyền là mộ Cố Thông, người trông coi miếu, không có vợ con, đã được đơn vị tôn tạo đẹp đẽ.

4/ Sách “Các trấn, tổng, xã, danh bị lãm” xuất bản triều Vua Gia Long chép về huyện Hưng Nguyên, xã Thái Lão bị xóa tên trong tổng Đô Yên mà đưa vào diện các xã thôn bị phiêu bạt.

Theo gia phả họ Hồ ở xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu thì cụ Hồ Thế Anh (Phó bảng) sinh được 5 người con trai. Trưởng nam là Hồ Thế Viêm (Sinh đồ) dời nhà lên làng Nhân Lý (nay thuộc Quỳnh Hồng), sau đó lại dời vào xã Thái Lão, huyện Hưng Nguyên.

Đoạn sau đây của gia phả họ Hồ ở Quỳnh Đôi là không hợp lý: Hồ Thế Viêm sinh một con trai là Hồ Phi Khang. Hồ Phi Khang sinh 5 con trai trong đó có Hồ Phi Phúc. Hai cha con Hồ Phi Khang và Hồ Phi Phúc di cư vào Nam lập nghiệp. Hồ Phi Phúc lấy vợ họ Nguyễn sinh ra Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ, … Không hợp lý, bởi vì, dân Hưng Nguyên không thể tự vào Nam trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Theo Địa chí văn hóa Hưng Nguyên, khi quân chúa Nguyễn chiếm được 7 huyện nam sông Lam, từ năm1655 đến năm 1660, đã bắt một số người dân Hưng Nguyên di cư vào Nam khai hoang. Trong đó có người họ Hồ. Từ năm 1665 đến năm 1753 - năm sinh Nguyễn Huệ, cách nhau gần 90 năm. Do đó người họ Hồ vào Nam phải là Tổ bốn đời của Nguyễn Huệ, như câu trong Nghệ An ký là “Nguyễn Nhạc tự nói Tổ bốn đời của mình di cư đến trại Tây Sơn”.

Từ những tư liệu và suy luận có lý như trên có thể khẳng định Tổ năm đời của Vua Quang Trung có mộ ở làng Thái Xá, xã Thái Lão là Hồ Thế Viêm, Sinh đồ triều Lê Trung Hưng. Tổ bốn đời, con của Hồ Thế Viêm vào Nam là Hồ Phi Long hoặc Hồ Phi Khang cần xác minh thêm./.
À!
Thế cho hỏi nhé:
Hồ Phi Phúc là cha Nhạc Huệ lấy vợ họ Nguyễn là ai?
Tại sao gia phả Tây Sơn ở Bình Định nói Hồ Phi Tiễn di cư vào nam đẻ ra Hồ Phi Khang, ông này lấy Nguyễn Thị Đồng làm vợ đẻ ra Hồ Phi Phúc chuyển sang Nguyễn Phi Phúc để lấy gia tài đàng vợ???
Tại sao nhiều tài liệu nói tổ 4 đời của anh em Tây Sơn di chuyển vào nam?
Còn theo tài liệu của anh thì chỉ có 2 đời?
Tại sao tổ 4 đời đều là Hồ Phi hoặc Nguyễn Phi
Sinh ra anh em Huệ Nhạc lại là Nguyễn Quang hoặc Nguyễn Văn???
Tại sao lại có tài liệu nói anh em Nhạc Huệ tự đổi họ Nguyễn theo lời khuyên của Trương Văn Hiến để thu phục lòng người???
Tại sao có quá nhiều mâu thuẫn trong các câu chuyện dòng họ anh em Nhạc Huệ
Tại sao anh em Nhạc Huệ có 2 người xưng Đế nhưng không ai truy phong tổ tiên hay không ai trở về họ gốc?
Tất cả đều lấy họ Nguyễn đặt cho con???
Và các tài liệu của anh đều thuật lại ghi chép.
Không hề căn cứ bất cứ thông tin nào cả???
 

atlas01

Tiến sĩ
1/ Sách “Nghệ An ký” của Bùi Dương Lịch, khi viết về núi Đại Hải có đoạn:

“大海山…東距魚海可五六十里其間為真祿縣地皆沙土蓋上古桑鹵變移故此山有大海之名

山南下為台峰在蔡老社是西山阮岳祖貫岳自言其四世祖流寓于歸仁府符離縣西山寨” (1)

Phiên âm: “Đại Hải sơn… Đông cự Ngư Hải khả ngũ lục lý. Kỳ gian vi Chân Lộc huyện địa, giai sa thổ. Cái thượng cổ tang lỗ biến di. Cố thử sơn hữu Đại Hải chi danh. Nam sơn hạ vi Thai phong, tại Thái Lão xã thị Tây Sơn Nguyễn Nhạc tổ quán. Nhạc tự ngôn, kỳ tứ thế tổ lưu ngụ vu Quy Nhơn phủ, Phù Ly huyện, Tây Sơn trại…”. Dịch nghĩa: “Núi Đại Hải… cách biển Ngư năm sáu mươi dặm về phía đông. Khoảng giữa là đất huyện Nghi Lộc, toàn là do cát bồi. Ngày xưa chỗ ấy là biển mặn sau biến thành bãi. Cho nên núi có tên Đại Hải. Phía nam núi Đại Hải, thấp hơn là ngọn núi Thai tại xã Thái Lão, đó là tổ quán của Tây Sơn Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc tự nói tổ 4 đời của mình di cư đến trại Tây Sơn, huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn…”.

Đây là tư liệu rất đáng tin cậy, vì Tiến sỹ Bùi Dương Lịch (1757-1828) chỉ kém Nguyễn Huệ, em Nguyễn Nhạc có bốn tuổi. Từng làm quan dưới triều Vua Quang Trung, và triều Nguyễn. Cuốn “Nghệ An ký” được biên soạn khi Bùi Dương Lịch làm Đốc học Nghệ An, khoảng từ năm 1805 - 1808, lúc Vua Gia Long mới lên ngôi. Chắc chắn ông biết rõ tổ quán của Nguyễn Huệ ở xã Thái Lão.

2/ Sách “An Tĩnh cổ lục” của Le Breton, nguyên Đốc học Trường Quốc học Vinh viết trong thời thuộc Pháp, ở Chương II, mục I: Những danh lam và thắng cảnh, có đoạn: “Làng Đông Thai nằm phía Nam của núi Đại Hải. Đó là cái nôi của dòng họ Tây Sơn(2). Làng Đông Thai là ngôi làng nằm phía đông núi Thai, tên Nôm là làng Kẻ Thai, tên chữ là Thái Xá.

3/ Sách “Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung” của Đỗ Bang, có đoạn “Năm 1789, Vua Quang Trung truyền cho dân xã Thái Lão tu tạo tổ miếu để phụng tự. Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ thì di tích tổ miếu ở Thái lão cũng bị triệt hạ. Hiện nay ở địa phương còn lưu lại nhiều truyền thuyết về Tổ Tây Sơn. Trong đó bài vè xã Thái lão có hai câu đầu: Xã Thái Lão phát Vương, trai anh hùng tuấn kiệt”. (3)

Hiện ở cánh đồng Khuông Ràn (địa phận làng Thái Xá cũ) còn dấu tích một ngôi miếu cổ chân núi Thai. Ông Nguyễn Quốc Phòng (sinh 1943), nguyên Bí thư Đảng ủy xã Hưng Đạo cho biết, thuở chăn trâu còn thấy dấu vết nền móng ngôi miếu cổ. Dấu tích đó đã biến mất khi đơn vị Kho Công binh đào ao nuôi cá. Duy có ngôi mộ cổ, tương truyền là mộ Cố Thông, người trông coi miếu, không có vợ con, đã được đơn vị tôn tạo đẹp đẽ.

4/ Sách “Các trấn, tổng, xã, danh bị lãm” xuất bản triều Vua Gia Long chép về huyện Hưng Nguyên, xã Thái Lão bị xóa tên trong tổng Đô Yên mà đưa vào diện các xã thôn bị phiêu bạt.

Theo gia phả họ Hồ ở xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu thì cụ Hồ Thế Anh (Phó bảng) sinh được 5 người con trai. Trưởng nam là Hồ Thế Viêm (Sinh đồ) dời nhà lên làng Nhân Lý (nay thuộc Quỳnh Hồng), sau đó lại dời vào xã Thái Lão, huyện Hưng Nguyên.

Đoạn sau đây của gia phả họ Hồ ở Quỳnh Đôi là không hợp lý: Hồ Thế Viêm sinh một con trai là Hồ Phi Khang. Hồ Phi Khang sinh 5 con trai trong đó có Hồ Phi Phúc. Hai cha con Hồ Phi Khang và Hồ Phi Phúc di cư vào Nam lập nghiệp. Hồ Phi Phúc lấy vợ họ Nguyễn sinh ra Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ, … Không hợp lý, bởi vì, dân Hưng Nguyên không thể tự vào Nam trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Theo Địa chí văn hóa Hưng Nguyên, khi quân chúa Nguyễn chiếm được 7 huyện nam sông Lam, từ năm1655 đến năm 1660, đã bắt một số người dân Hưng Nguyên di cư vào Nam khai hoang. Trong đó có người họ Hồ. Từ năm 1665 đến năm 1753 - năm sinh Nguyễn Huệ, cách nhau gần 90 năm. Do đó người họ Hồ vào Nam phải là Tổ bốn đời của Nguyễn Huệ, như câu trong Nghệ An ký là “Nguyễn Nhạc tự nói Tổ bốn đời của mình di cư đến trại Tây Sơn”.

Từ những tư liệu và suy luận có lý như trên có thể khẳng định Tổ năm đời của Vua Quang Trung có mộ ở làng Thái Xá, xã Thái Lão là Hồ Thế Viêm, Sinh đồ triều Lê Trung Hưng. Tổ bốn đời, con của Hồ Thế Viêm vào Nam là Hồ Phi Long hoặc Hồ Phi Khang cần xác minh thêm./.
Các tài liệu đầu tiên của anh chỉ nói tổ của Nguyễn Nhạc ở núi thái lão Nghệ An
Không hề nói Nguyễn Nhạc gốc họ Hồ.
Còn họ Hồ do gia phả Hồ tự viết như vậy.
Toàn thông tin từ gia phả
Mà gia phả cũng viết bậy
Anh tự nhận nhé
 

Chim Cút

Yếu sinh lý
Câu chuyện anh em Huệ gốc họ Hồ không có tài liệu nào xác nhận cả.
Tất cả đều là nghi vấn.
Thứ nhất trong nhà Huệ ngoài 3 anh em còn có Nguyễn Quang Hoa là anh cả cha của Nguyễn Quang Hiển.
Hoa không tham gia khởi nghĩa
Chứng tỏ gia tộc này họ Nguyễn Quang là họ kép có từ trước không phải khi khởi nghĩa mới đổi họ
Cái tên Hồ Thơm của Huệ cũng là bịa đặt do các nhà nghiên cứu tự gán cho khi suy luận từ chi tiết Huệ khi bé tên Thơm và có gốc họ Hồ thế là họ tự gán ghép thành Hồ Thơm.
Hoa, Huệ đều họ Nguyễn Quang.
Và đẻ con đều đặt họ Nguyễn Quang
Con của Hoa là Nguyễn Quang Hiển
Con của Huệ là Nguyễn Quang Thùy Quang Toản, Quang Bàn, Quang Thiệu...

Nguyễn Quang Hiển khi sang nhà Thanh có tiết lộ về gia đình như sau
Trong bữa ăn, Nguyễn Quang Hiển cho Phúc Khang An biết ông ta là "đích trưởng điệt [cháu lớn nhất thuộc dòng chính), Nguyễn Huệ nuôi dạy như con. Cha tôi là Nguyễn Quang Hoa 阮光華 mất sớm, chú thứ hai là Quang Nhạc 元, hiện ở Quảng Nam, chú thứ ba là Quang Bình + tức Nguyễn Huệ, chú thứ tư là Quang Thái 光善 cũng sống ở Quảng Nam, trên núi Tây Sơn
Ba anh em nó đéo phải nhưng ông nội nó phải thì làm sao
 
Bên trên