Kiến thức 🚨🚨🚨: Làm rõ lý lịch, gốc tích Nguyễn Huệ là ai, họ gì dân tộc gì.

atlas01

Tiến sĩ
mày thiếu nguồn gia phả nữa kìa, nên nhớ gia phả không bao giờ ghi bừa, nhất là thù với vua đương triều.
còn hlntc được ghi bởi quan lại nhà nguyễn, từ thế lực đối lập với tây sơn luôn đấy nhé
Ở Việt Nam gia phả là thứ phét lác và ghi bừa nhiều nhất
 

atlas01

Tiến sĩ
thằng nào tóm tắt lại Nguyễn Huệ là người như thế nào theo thông tin thằng thớt nêu ra đc không ? :v
Vô tổ tiên vô chủng tộc
Nhận mãn thanh làm cha nhận chiêm thành làm tổ.
Huệ còn xin Càn Long cho cạo đầu thắt bím lúc mặc hoàng mã quái trang phục Mãn để bày tỏ lòng trung thành nhưng Càn long đéo cho.
Bảo là ngươi dù sao cũng là quốc chủ.
Cạo đầu thắt bím thì về nước đối diện với con dân phải ăn nói ra sao?
 

Lê Nữu Vượng

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Vô tổ tiên vô chủng tộc
Nhận mãn thanh làm cha nhận chiêm thành làm tổ
Vua Lý đánh Chiêm bắt tổ tiên Huệ là thợ thủ công về làm gạch ngói xây điện sau lưu lạc về Nghệ An ở đó rồi lại theo chúa Nguyễn về lại miền nam


3 anh em Huệ là triều đại đậm chất "Chiêm Thành" nhất của Việt Nam, từ cách lên ngôi, quân đội, cho đến phân chia lãnh thổ thành các tiểu quốc nhỏ (cho Huệ, Nhạc và Lữ cai trị). Đất khởi phát của Tây Sơn nằm ngay vùng Vijaya, nơi có kinh thành Trà Bàn.

Nguyễn Nhạc mặc đồ như người Chăm và không hề giấu diếm ý định hồi sinh lại vương quốc Champa, đáp ứng mong mỏi của dân vùng đó.
Thật ra vua Champa không nhất thiết phải là người Chăm, chẳng hạn vua Pô Rômê là người Churu.

Khi Nguyễn Huệ ra Bắc, người Bắc Hà đã gọi quân Tây Sơn là "quân cuồng Chiêm". Kinh đô mà vua Quang Trung đặt cho nước Việt nằm sát hai ngọn núi Kỳ Lân và Phượng Hoàng. Xamer nào ở Nghệ An tại phường Trung Đô, thành phố Vinh chắc biết.

Nguyễn Huệ lúc tự xưng hoàng đế làm lễ trên ngọn núi Bân gần Huế luôn. Đây là một phong cách cực chất chơi đú trend và "dị", vì xưa nay hoàng đế Đại Việt lúc nhường ngôi hoặc đăng đàn bao giờ cũng tổ chức trọng thể trong lâu đài, hoàng cung chưa một ông nào làm lễ trên núi hết.
Vì trong văn hóa Ấn Độ, ngọn núi Meru nằm trên lưng rùa Kurma là trung tâm vũ trụ, nơi vị thần tối cao Vishnu cai trị. Nguyễn Huệ xưng đế trên núi và tự nhận là hậu duệ vua Chăm trong văn thư ngoại giao.

Về mặt nào đó, hoàng đế Quang Trung là phiên bản hùng mạnh và nguy hiểm hơn của vua Chế Bồng Nga
gia-long-nguyen-hue.jpg
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Lê Nữu Vượng

Yếu sinh lý
Chủ thớt
anh Ánh tế cáo trời đất ngoài ruộng
Lên ngôi ở điện như vua Lý, Lê, Trần


Gia Long lên ngôi ở cung điện ở Huế, lúc này còn sơ sài chưa có cái đại nội
Chân dung vua Gia Long.Ngày mồng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) ông cho lập đàn ở đồng An Ninh, hiệp tế trời đất, kính cáo việc đặt niên hiệu. Hôm sau kính cáo vong linh liệt thánh, lễ xong vua ngự ở điện, nhận lễ chầu mừng. Đặt niên hiệu là Gia Long, đại xá cho cả nước, ban chiếu cùng 6 điều thi ân.
Năm 1804, sau khi lên ngôi sắp đặt chính trị ổn định, vua Gia Long sai Lê Quang Định cùng các sứ thần sang nước Thanh cầu phong và đề nghị công nhận quốc hiệu Nam Việt với ý nghĩa “Các đời trước mở mang cõi viêm bang, mỗi ngày một rộng lớn, bao gồm cả các nước Việt Thường, Chân Lạp, dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay đã vỗ yên được toàn cõi Việt, nên cho khôi phục hiệu cũ để chính danh tốt”. Nhưng vua nước Thanh cho rằng chữ Nam Việt dễ bị nhầm lẫn bao gồm cả Đông Tây Việt[2] nên không muốn cho. Vua Gia Long hai ba lần phục thư biện giải, lại nói nếu không cho thì không thụ phong. Vua nhà Thanh ngại mất lòng, mới cho dùng chữ Việt Nam để đặt tên nước[3].
Ngay sau khi được nhà Thanh công nhận quốc hiệu, ngày Đinh Sửu, tháng 2 năm Giáp Tý (1804) vua Gia Long cho làm lễ kính cáo Thái miếu. Xuống chiếu bố cáo khắp trong ngoài rằng “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta đem tấm thân nhỏ bé lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam, đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ tướng, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”. Sau đó hạ chiếu thông cáo đến các nước Xiêm La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng đều biết[4].
10-02-002-075821-100220-32.jpg

Đặt quốc hiệu Việt Nam năm Gia Long thứ 3 (1804). Nguồn: Đại Nam thực lục, Đệ nhất kỷ, quyển XXIII
Mặc dù đã chính thức xưng vương, đặt niên hiệu vào năm 1802, nhưng với tư tưởng của người có chí lớn, muốn thể hiện quyền uy thiên tử, theo đề nghị của quần thần, năm 1806 vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế tại điện Thái Hòa. Trong bản Chiếu ban bố việc lên ngôi Hoàng đế có lời rằng: Trẫm nghĩ: Đức của người làm vua giống như mặt trời, vương giả lấy đó mà soi sáng; đạo thống như trời, thánh nhân nhờ đấy mà noi theo phép tắc. Lớn lao thay nhà nước ta, bao trùm cả cõi Nam! Các thánh đời trước, dựng nghiệp dốc lòng, gắng sức xây nền, hai trăm năm lẻ, thánh hiền tiếp nối, công đức rạng danh… Trẫm nhờ uy linh tông miếu xã tắc và sức mạnh của quần thần, phá được quân thù, khôi phục nghiệp cũ, mở mang bờ cõi, lập nên công lớn, thực là chức phận của Trẫm, đâu dám ở ngôi cao. Nhưng các thân công đại thần nhiều lần tâu rằng trách nhiệm yên dân trời đã giao cho Trẫm mà lịch số vô cùng cũng duy có Trẫm nối dõi, cố xin Trẫm lên ngôi Hoàng đế để tỏ rõ đại thống. Vì vậy, Trẫm định ngày mồng 7 tháng này kính cáo Trời Đất, ngày 9 kính cáo Tôn Miếu, ngày 12 tiếp nhận sách văn, tôn xưng Hoàng đế[5].
Sau khi lập quốc, Gia Long cho lập danh sách truy tôn, tặng thưởng các công thần theo phò vua khai quốc. Vua ban Dụ rằng: Đấng vương giả dựng nghiệp truyền mối, trước phải tôn thờ người có đức, báo đáp người có công. Nhà nước ta trăm trận vất vả mới khôi phục được non sông, đành là mệnh trời yêu mến, nhưng cũng thực là nhờ sức của các tướng sĩ cùng ta chống kẻ thù chung. Phàm người có chiến công, còn sống thì đã được vinh gia tước trật, duy những người vì nước bỏ mình, trong lúc can qua bận rộn, chưa kịp truy phong, mà sổ ghi công trạng vẫn còn, thì đều cho các quan chưởng lãnh và chánh phó trưởng chi [của các viên đã mất] tới trước điện hầu nghe bàn công truy tặng, để cho yên ủi hồn thơm đã khuất[6]. Lại ra lệnh thu dùng con cái, không có con thì dùng cháu, không có cháu thì dùng em, tùy theo công lao nặng nhẹ, hoặc trao cho quan chức, hoặc cho miễn binh dao trọn đời. Sau đó sai trấn Phiên An chọn đất xây đền, đặt tên là đền Hiển Trung, thờ những công thần, lại sắc cho Bộ Lễ bàn định điển lễ thờ tự, hằng năm xuân thu làm lễ tế. Đặt phu coi đền 25 người.
Ngoài ra ông còn cho sửa sang phả điệp tông thất, kê khai con cháu trong phả hệ. Bản Chiếu ngày 15 tháng 12 năm Gia Long thứ nhất (1802) chiếu cho những người thuộc dòng Nguyễn Phước tộc biết: Từ khi Đức Tiên Thái Vương[7] dựng nước, Nam giao thánh thần truyền nối trải được tám, chín đời, các chi phái sinh sôi phồn thịnh. Khi nước nhà mới khởi nghiệp mở mang, tông tính nhiều phen bôn ba. Nay nhờ liệt thánh rủ lòng che chở, bình kẻ tiếm loạn, duy việc các thế hệ thân thích trong dòng họ đến nay vẫn chưa được rõ ràng. Vì vậy nay ban đặc chiếu căn cứ từ Đức Tiên Thái Vương cùng Liệt Tiên Thánh Vương cho đến nay chiếu theo phả điệp của hoàng tộc phụng truyền cho công tính các chi phái đều kê khai rõ ràng các đời, phả hệ phỏng từ Đức Tiên Thái Vương sinh hạ được công tử là hiền ngôi, ai là dòng đích, ai là dòng thứ, nối sinh con cháu các thế hệ được bao nhiêu, nhận ân điển của liệt triều cũng vậy. Hễ công tính các chi phái hiện còn bao nhiêu, ai đã được dự vào hàng quan chức, ai chưa được đều phải kê khai đầy đủ theo các thế hệ trước, nghiên cứu rõ ràng đích thực, sửa sang phả điệp trình lên để xem xét[8].
Sắp xếp ổn định xong việc định đô, đặt niên hiệu, quốc hiệu, tôn xưng đế hiệu, báo đáp công thần, sửa sang tông phả; Hoàng đế Gia Long bắt tay vào công cuộc xây dựng thiết chế bộ máy chính quyền, chế định triều nghi, luật pháp, binh ngạch, khoa cử… Công cuộc khai quốc của ngài còn rất nhiều việc phải làm.


[1] Trên thực tế mùa xuân tháng Giêng năm Canh Tý (1780) Nguyễn Ánh đã xưng vương tại Gia Định để chính danh khi tiễu phạt Tây Sơn. Tuy nhiên vẫn dùng niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê và ấn Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh trấn chi bảo từ thời Hiển tông Hiếu minh hoàng đế làm bảo tỷ truyền quốc. Vì vậy năm 1802 mới là năm chính thức bắt đầu triều đại Gia Long và cũng là năm bắt đầu của triều Nguyễn.
[2] Tức vùng Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Hoa.
[3] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, trang 580.
[4] Đại Nam thực lục, đã dẫn, trang 588.
[5] Đại Nam thực lục, đã dẫn, trang 665.
[6] Đại Nam thực lục (Tiền biên), đã dẫn, trang 277.
[7] Tức Chúa Tiên Nguyễn Hoàng.
[8] Châu bản triều Nguyễn, Gia Long tập 1, tờ 2-3.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Lê Nữu Vượng

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Được sự ủng hộ của quân đội và giới Phật giáo, Lý Công Uẩn đã lên nắm triều chính. Đây là sự thay đổi vương triều thuận ý trời, hợp lòng người nên đã diễn ra êm thấm, không có đổ máu. Lý Công Uẩn lên ngôi ngày 2/11 năm Kỷ Dậu, tức ngày 21/11/1009 tại kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình). Ông là người sáng lập vương triều nhà Lý, lấy hiệu là Lý Thái Tổ, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt.

Tuong-Ly-Thai-To.jpg
 

Lê Nữu Vượng

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Sau 10 năm khởi nghĩa và đánh đuổi quân Minh khỏi bờ cõi, năm 1428, người Anh hùng dân tộc Lê Lợi đã lên ngôi vua tại điện Kính Thiên, xưng vương là Thuận Thiên, đặt tên nước là Đại Việt. Sự kiện này chấm dứt 20 năm đô hộ của ngoại bang.

Múa dâng hương tại Khu di tích tưởng niệm vua Lê Thái Tổ.
Múa dâng hương tại Khu di tích tưởng niệm vua Lê Thái Tổ.
 

atlas01

Tiến sĩ
thằng thớt tâm huyết quá, nhưng tại sao mày lại thù nguyễn huệ đến thế ?
Đọc xong nhiều tài liệu tao mới thấy Huệ đáng kinh tỡm.
Để vui lòng Càn Long Huệ mặc trang phục Mãn còn bắt đoàn tùy tùng 120 người mặc mãn phục quỳ lạy Càn Long còn tỏ ra rất vinh dự.
Sứ Triều tiên hỏi phan huy ích là tôi biết quốc phục nước ông cũng khá giống nước tôi là trang phục thời Minh.
Sao bây giờ lại mặc trang phục Mãn.
Phan huy ích xấu hổ quá lãng tránh bảo là mặc trong yến tiệc thôi. Còn khi chính thức làm lễ sẽ mặc lại trang phục bản quốc
 

Chuột Lang Nước

Yếu sinh lý
Đọc xong nhiều tài liệu tao mới thấy Huệ đáng kinh tỡm.
Để vui lòng Càn Long Huệ mặc trang phục Mãn còn bắt đoàn tùy tùng 120 người mặc mãn phục quỳ lạy Càn Long còn tỏ ra rất vinh dự.
Sứ Triều tiên hỏi phan huy ích là tôi biết quốc phục nước ông cũng khá giống nước tôi là trang phục thời Minh.
Sao bây giờ lại mặc trang phục Mãn.
Phan huy ích xấu hổ quá lãng tránh bảo là mặc trong yến tiệc thôi. Còn khi chính thức làm lễ sẽ mặc lại trang phục bản quốc
sao mày không nghĩ đó chỉ là sự khéo léo trong ngoại giao ? tao thấy mày cực đoan quá
 

atlas01

Tiến sĩ
Sứ thần Triều Tiên nó viết về anh Huệ đây:

Khi về đến Viên Minh Viên, mỗi khi hoàng đế với Quang Bình đến gặp thì Phúc Khang An lại đứng bên ngoài cửa ghé tai nói thầm chỉ bảo cách tấu đối, đến khi lên điện thì lại kéo áo chỉ dẫn cách ngồi đứng, quỳ lạy. Khi tiếp riêng ở triều phòng thì Khang An đứng nói, còn Quang Bình quỳ đáp, thái độ thật là hèn hạ, chẳng điều gì mà không làm
 
Bên trên