Nguyên tắc suy đoán vô tội thực chất luôn luôn được áp dụng trong việc xét xử,có chăng là việc cơ quan công tố hoặc toà có "tôn trọng" nguyên tắc này hay không thôi. Nguyên tắc đó hiểu đơn giản là mọi người đều vô tội cho tới khi bị chứng minh là có tội. Như vậy nghĩa vụ chứng minh có tội thuộc về cquan công tố,toà án. Bị cáo HDH có quyền nhưng ko có nghĩa vụ phải chứng minh mình vô tội. Ở vụ án này thì HDH đã kêu oan,đã bác lời khai của mình trước toà, do vậy lời khai nhận tội của bị cáo ko thể dùng làm chứng cứ buộc tội. Toà ko chỉ ra được bất cứ chứng cứ,nhân chứng nào để chứng minh HDH là thủ phạm,chỉ dựa duy nhất vào lời khai nhận tội,đó là vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội