Quá trình tham gia cách mạng của đại tướng Lê Trọng Tấn
Năm 1944, đại tướng Lê Trọng Tấn tham gia tổ chức Việt Minh và làm công tác binh vận ở Bạch Mai, Hà Nội.
Tháng 6 năm 1945, ông cùng một số đồng chí tiêu diệt đồn Đông Quan của Pháp, sau đó ông được cử làm Ủy viên phụ trách quân sự trong Ủy ban khởi nghĩa của tỉnh Hà Đông và tham gia chỉ đạo để giành lại chính quyền tỉnh.
Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ vào năm 1946, đại tướng Lê Trọng Tấn tham gia công tác quân sự. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến 1950, ông là trung đoàn phó rồi trung đoàn trưởng các trung đoàn: Sơn La, Sơn Tây, quyền khu trưởng Khu XIV, khu phó của Liên khu X.
Khi Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập các đại đoàn chủ lực, ông trở thành Đại đoàn trưởng đầu tiên của đại đoàn 312 – Đại đoàn Chiến thắng (nay là Sư đoàn) ở tuổi 36. Trong trận Điện Biên Phủ, đại đoàn 312 do đại tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy đã đánh trận mở màn vào cao điểm Him Lam (13 tháng 3 năm 1954) và kết thúc chiến dịch vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, bắt sống tướng Christian de Castries và ban chỉ huy tập đoàn cứ điểm.
Từ tháng 12 năm 1954 đến năm 1960, ông là Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân. Năm 1959, ông đã được phong quân hàm Đại tá.
Từ tháng 3 năm 1961 đến năm 1969, đại tướng Lê Trọng Tấn là Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1964, tướng Lê Trọng Tấn nhận nhiệm vụ Phó tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Uỷ viên Quân uỷ Miền với bí danh “Ba Long”. Ông chính là một trong những người tham gia tổ chức chiến dịch Mậu Thân 1968 cùng với đại tướng Hoàng Văn Thái.
Từ năm 1970 đến 1979, ông là Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam kiêm Tư lệnh Mặt trận Đường 9, đặc phái viên Bộ tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh Bộ chỉ huy Quân giải phóng nhân dân Lào, tham gia chỉ đạo chiến dịch Cánh Đồng Chum.
Năm 1972, đại tướng Lê Trọng Tấn được cử làm Tư lệnh Chiến dịch Trị Thiên. Năm 1973, ông trở thành Phó Tổng Tham mưu trưởng kiêm Tư lệnh Quân đoàn I Quyết thắng, quân đoàn đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 3 năm 1975, ông làm Tư lệnh Chiến dịch Huế – Đà Nẵng. Tháng 4 cùng năm, ông được cử làm Phó Tư lệnh chiến dịch Uncle Lake kiêm Tư lệnh cánh quân phía đông (gồm quân đoàn 2, quân đoàn 4, sư đoàn 3) tấn công vào Sài Gòn. Chính Lữ đoàn xe tăng 203, quân đoàn 2 thuộc cánh quân của ông đã tiến vào dinh Độc Lập đầu tiên.
Từ năm 1976 đến tháng 2 năm 1977, đại tướng Lê Trọng Tấn là Phó Tổng Tham mưu trưởng kiêm Viện trưởng Học viện quân sự cao cấp.
Từ tháng 12 năm 1978 đến tháng 2 năm 1979, ông chỉ huy các lực lượng vũ trang trong chiến tranh biên giới Tây Nam và đánh quân Khmer Đỏ của Pol Pot ở Campuchia.
Từ năm 1980 đến năm 1986, đại tướng Lê Trọng Tấn là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1984, Bộ Chính trị chỉ định ông làm Uỷ viên Hội đồng Quân sự Bộ Quốc phòng. Ông là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IV và V (từ 1976 đến 1986), đại biểu Quốc hội khóa VII.