Trịnh–Nguyễn phân tranh (
chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "
vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc
sông Gianh (
Đàng Ngoài) và
chúa Nguyễn cai trị ở miền Nam (
Đàng Trong), mở đầu khi
Trịnh Tráng đem quân đánh
Nguyễn Phúc Nguyên năm
1627 và kết thúc vào năm 1777 khi chúa Nguyễn sụp đổ.
Ban đầu, cả thế lực họ Trịnh và họ Nguyễn đều mang khẩu hiệu "
phù Lê diệt Mạc" để lấy lòng thiên hạ và thề trung thành với triều Hậu Lê. Sau khi
nhà Mạc đã bị đánh đổ, trên danh nghĩa, cả Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn đều là 2 vị bề tôi của
nhà Hậu Lê, cả
Đàng Trong lẫn
Đàng Ngoài đều là lãnh thổ của
nhà Lê. Nhưng trên thực tế thì cả hai tập đoàn phong kiến này đều tạo thế lực cát cứ cho riêng mình như 2 nước riêng biệt, vua
nhà Hậu Lê đã không còn thực quyền nên không ngăn chặn được sự phân tranh giữa hai họ Trịnh–Nguyễn.
Nước Đại Việt trong giai đoạn này bị chia cắt khoảng 150 năm.
Bài chi tiết:
Nam-Bắc triều (Việt Nam),
chúa Trịnh, và
chúa Nguyễn
Năm
1527,
Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà
Hậu Lê lập ra
nhà Mạc. Năm
1533, tướng cũ của nhà Lê là
Nguyễn Kim lập con vua
Lê Chiêu Tông lên ngôi, tức là
Lê Trang Tông. Năm
1545,
Nguyễn Kim bị sát hại, con rể là
Trịnh Kiểm lên thay. Để nắm trọn binh quyền, Trịnh Kiểm đầu độc giết con cả của Nguyễn Kim là
Nguyễn Uông. Em của ông là
Nguyễn Hoàng lo sợ bị anh rể hại, nên nghe theo lời khuyên của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, xin vào trấn thủ
Thuận Hóa. Trịnh Kiểm cho rằng đất ấy là nơi xa xôi, hoang vu nên đồng ý cho đi, với hy vọng rằng khi đụng độ với quân nhà Mạc, Nguyễn Hoàng sẽ bị giết chết dưới tay chúng. Tuy nhiên, ngạc nhiên thay,
Nguyễn Hoàng không những đánh bại được quân nhà Mạc, mà lại còn lấy được lòng dân Thuận Hóa nữa.
Mải đối phó với nhà Mạc ở phương bắc, Trịnh Kiểm cho Nguyễn Hoàng kiêm trấn thủ luôn
Quảng Nam. Năm
1570, Trịnh Kiểm chết, con cả là
Trịnh Cối lên thay. Cối không màng chính sự, bị em là
Trịnh Tùng đoạt quyền. Cối cùng đường đầu hàng nhà
Mạc và chết già ở đất Bắc.
Trịnh Tùng nắm đại quyền, thao túng triều đình, cho người ám sát vua
Lê Anh Tông lập vua nhỏ là Thế Tông. Năm
1592, Trịnh Tùng đánh chiếm được
Thăng Long, đuổi họ Mạc chạy lên
Cao Bằng. Khi rước được vua Lê về kinh thành, Trịnh Tùng bắt đầu tính tới người cậu Nguyễn Hoàng ở phuơng nam.
Cuộc chiến Trịnh–Nguyễn thực sự diễn ra từ năm
1627 nhưng đó là chỉ tính về mặt
quân sự. Nếu tính cả trên mặt trận
ngoại giao,
xung đột giữa hai bên đã nổ ra từ nhiều năm trước.
Bài chi tiết:
Nguyễn Hoàng và
Trịnh Tùng
Năm
1593,
Trịnh Tùng triệu
Nguyễn Hoàng ra Bắc với lý do để cùng đánh tàn dư họ Mạc còn tản mát ở Bắc bộ. Hoàng vâng lệnh mang quân ra bắc, phá tan quân Mạc ở Hà Trung và Sơn Nam, sau đó được Tùng giao trách nhiệm trấn giữ Sơn Nam.
Nguyễn Hoàng đóng quân ở Sơn Nam được 8 năm cố tìm cách thoát về nam. Năm 1600, nhân họ Mạc nổi dậy, Hoàng ngầm xúi giục các hàng tướng Mạc cũ là Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê, Ngô Đình Nga nổi loạn để lấy cớ đi dẹp. Trịnh Tùng mải đối phó họ Mạc ở Cao Bằng, họ Vũ ở Tuyên Quang (tức
Chúa Bầu)
[2] nên đồng ý cho Nguyễn Hoàng đi dẹp. Hoàng nhân cơ hội đó chạy thẳng ra biển đi thoát về nam.
Thấy Nguyễn Hoàng trốn thoát, Trịnh Tùng sai người cầm thư vào nam dụ ra lần nữa nhưng Hoàng không ra, sau đó lại bỏ không nộp thuế đều đặn cho miền bắc. Để xoa dịu tình hình, Hoàng gả con gái là Ngọc Tú cho con Tùng là Tráng (tức là cháu lấy cô).
Năm
1613, Nguyễn Hoàng qua đời, người con trai thứ 6 là
Nguyễn Phúc Nguyên lên thay, tức là Sãi vương (hay chúa Sãi). Năm
1623, Bình An Vương Trịnh Tùng qua đời, con là
Trịnh Tráng lên thay, tức là Thanh Đô Vương.
Sử sách
nhà Nguyễn chép rằng, năm
1627, lấy cớ Nguyễn Phúc Nguyên bỏ không nộp thuế cho vua Lê, Trịnh Tráng làm sắc đứng tên vua Lê gửi trách Nguyễn, đòi đích thân hoặc sai con tải thuế ra bắc. Theo kế của mưu sĩ
Đào Duy Từ, Phúc Nguyên một mặt lo tăng cường phòng thủ, một mặt tìm cách trả lại sắc thư.
Theo giai thoại, vì lực lượng yếu không thể ra mặt trả sắc thư cho chúa Trịnh, chúa Nguyễn sai đúc mâm hai đáy, để sắc thư kèm theo một bài thơ do Đào Duy Từ viết, cho vào đáy dưới, bên trên để vàng bạc, rồi sai Văn Khuông mang ra bắc tạ với
chúa Trịnh. Khuông dâng mâm lên chúa Trịnh rồi giả cách về công quán nghỉ, trốn luôn về nam. Phía Trịnh phát giác mâm hai đáy bèn mở ra, bên trong có tờ sắc thư và một bài thơ chữ Hán như sau:
矛而無腋
覔非見跡
愛落心腸
力來相敵
Âm Hán-Việt:
Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch
Các bầy tôi dưới quyền chúa Trịnh không giải được nghĩa bài thơ. Mãi sau
Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan mới giải được nghĩa rằng:
- Câu đầu ý là chữ "mâu" (矛) bỏ nét phẩy. Chữ "mâu" không có nét phẩy thì thành ra chữ "dư" (予), nghĩa là "ta", "tôi".
- Câu thứ hai ý là chữ "mịch" (覔) bỏ chữ "kiến" (見). Chữ "mịch" sau khi bỏ chữ "kiến" thì còn lại chữ "bất" (不), nghĩa là "không".
- Câu thứ ba ý là chữ "ái" (愛) bỏ chữ "tâm" 心. Chữ "ái" không có chữ "tâm" thì thành ra chữ "thụ" (受), nghĩa là "nhận".
- Câu cuối ý là chữ "lai"(來) ghép với chữ "lực" (力). Chữ "lai" đem ghép với chữ "lực" thì thành chữ "sắc" (勑).
Ẩn ý của bài thơ này là "dư bất thụ sắc" (予不受勑), nghĩa là "Ta không nhận sắc".
Theo sử sách
nhà Nguyễn,
[3] sau khi hiểu được nghĩa bài thơ, nhận ra câu trả lời ngang ngạnh của Nguyễn Phúc Nguyên, Trịnh Tráng tức giận quyết định khởi đại binh vào nam. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu
[4] đều cho rằng điều này không phải là sự thật. Trên thực tế, người giải được bài thơ của Đào Duy Từ là
Phùng Khắc Khoan đã mất từ năm 1613, trước đó 14 năm rồi. Không những thế, trong chính cuốn sử biên niên
Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn cũng chép rằng, sau khi Văn Khuông dâng mâm xong trốn về, tướng Nguyễn đóng ở biên giới đã chủ động đánh lấn sang đất Trịnh gây hấn trước, do đó Trịnh Tráng mới động binh vào nam, dẫn tới cuộc đại chiến đầu tiên giữa Trịnh và Nguyễn.
Sau này, các sử gia hiện đại tìm ra rằng chân tướng của sự việc này không giống những gì sử nhà Nguyễn chép. Chiếc mâm đồng hai đáy và bài thơ mà Đào Duy Từ dụng tâm khổ trí làm ra thì có thể có, nhưng thực ra phía Trịnh đã không phát giác ra cái mâm có hai đáy và do đó chúa Trịnh không phải tức giận về bài thơ này. Nhà Nguyễn muốn cha ông mình – chúa Sãi – đấm được họ Trịnh một cú đòn ngoại giao ngoạn mục, nhưng trên thực tế quả đấm đó "chỉ trúng vào không khí". Các sử gia nhà Nguyễn đã sơ hở khi ghi rằng Trạng Bùng làm người giải bài thơ của mưu sĩ họ Đào, nhưng lại quên rằng lúc đó Trạng Bùng đã qua đời từ lâu (ông qua đời năm 1613). Theo các nhà nghiên cứu, việc chúa Nguyễn tiếp tục không nộp thuế, cũng không ra nộp mình và cũng không sai con ra nhận sắc lệnh của vua Lê (chúa Trịnh nhân danh), rồi họ Nguyễn chủ động gây hấn mới là lý do để Trịnh Tráng khởi binh.