Lại hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ. Để tao kể cho mày nghe rồi tự đi kiểm chứng nhé:
Nông nghiệp: Vựa lúa lớn nhất Đông Nam Á, lớn hơn cả Thái Lan, 200 năm chưa từng có nạn đói cho đến năm 1976.
Hàng tiêu dùng: Kem đánh răng Hynos ( tiền thân của kem P/S bây giờ), Perlon, Xà bông Cô Ba, Sá xị Con Cọp, Thịt hộp Vissan, Dầu Nhị Thiên Đường, 3 nhà máy sữa tiền thân của Vinamilk, Bia 33 Export ( tiền thân của 333 bây giờ), Mì Colusa (tiền thân của Miliket), gạch Đồng Tâm, nước khoáng Vĩnh Hảo, bông Bạch Tuyết, sơ sơ cho mày hơn 10 cái rồi đó.
Theo mày nếu mấy thương hiệu của VNCH không có chất lượng thế tại sao CS sau năm 1975 phải quốc hữu hóa rồi kiếm lời cho đến tận bây giờ
Mày lại xạo lol nửa
Vựa lúa cái con kẹc
Toàn bộ nền kinh tế VNCH phụ thuộc vào nhập khẩu kể cả nhập khẩu gạo
Đọc cái bài này đi
Ngày 17/10/1973, OPEC họp tại Kuwait quyết định tăng giá dầu thô lên gấp bốn lần: Một thùng dầu thô đang từ 4 USD nhảy vọt lên 12 USD. Rồi trong bảy năm tiếp theo, giá dầu tăng lên tới 50 USD; lãi suất từ 6,5% lên 18%; và vàng từ $42 lên $87.
Tại Mỹ, xăng khan hiếm, lạm phát tăng cao và các nước hậu tiến phải gánh chịu hậu quả lớn lao. Bao nhiêu 'Kế hoạch ngũ niên' đều bị vô hiệu hóa. Vật giá leo thang thật nhanh, lạm phát phi mã lan tràn khắp nơi.
VNDCCH không bị ảnh hưởng vì Liên Xô vẫn cung cấp lượng dầu viện trợ như đã được ấn định hằng năm. Còn đối với Việt Nam Cộng Hòa thì ngược lại: phải gánh chịu cú 'sốc' nặng nề.
Vì sao lại như vậy?
Tại Bộ Kế Hoạch năm ấy, chúng tôi đã phân tích tình huống này hết sức rõ ràng cho chính phủ.
Có ba lý do chính được tóm tắt vắn gọn như sau:
Thứ nhất, nền kinh tế Miền Nam lệ thuộc quá nhiều vào việc nhập cảng một số sản phẩm thuộc vào loại bị ảnh hưởng tăng giá nhiều nhất như xăng, nhớt, dầu khí, dầu diesel, gạo, phân bón, đường, xi măng, sắt thép, máy móc, thiết bị. Mấy mặt hàng này trung bình tăng giá 80%. Chúng lại là những hàng chiếm tới gần 40% tổng số nhập cảng của Việt Nam;
Thứ hai, các nước khác tuy phải nhập xăng nhớt đắt đỏ, nhưng còn có thể gỡ lại được phần nào khi hàng xuất cảng của họ cũng tăng giá lên theo. Còn ở Miền Nam thì lại khác. Khả năng của Đồng Bằng Cửu Long là vựa lúa của cả Đông Nam Á trong thời bình đã biến đi mất. Năm 1963 là năm cuối cùng xuất cảng được ít gạo (63.000 tấn), từ đó chỉ còn xuất lai rai chút ít như cao xu, trà, tôm cá, lông vịt, gỗ quý.
Thứ ba, nhập cảng chiếm tới một phần ba tổng sản phẩm quốc nội. Có nghĩa là khi có cú 'sốc' làm tăng giá nguyên liệu nhập cảng thì ảnh hưởng của nó sẽ lan tràn ra mọi lãnh vực sản xuất. Khi giá phân bón, thuốc trừ sâu nhập vào tăng lên, giá gạo phải lên theo; giá bông gòn nhập vào tăng lên, sẽ kéo theo giá vải vóc, rồi giá quần áo. Và cứ như thế mà theo nhau. Cuối năm 1973, trung bình, giá nhập cảng đã tăng lên gần 50%.
Giá tiêu thụ nhảy vọt lên 66%, phản ảnh mức lạm phát phi mã chưa từng có dù giữa một cuộc chiến. Nguyên việc giá gạo tăng mạnh cũng đã ảnh hưởng sâu đậm tới tinh thần người dân, đặc biệt là quân đội. Một người lính trung bình được lĩnh 20.000 dồng Việt Nam một tháng, sau khi mua gạo cho gia đình thì chẳng còn bao nhiêu để mua thực phẩm, thuốc men, chi tiêu; chưa nói tới nhà cửa, giáo dục, giải trí.
Tinh thần quân, dân bắt đầu lung lay trước đại họa đến từ Trung Đông “Cơn đằng Đông vùa trông vừa chạy…” - đối với người nông dân Việt Nam thì khi thấy có những đám mây đen ùn ùn kéo tới từ phía Đông thì đó là dấu hiệu mưa lớn sắp ập tới.
thì phải điều chỉnh cả giá phân bón. Nguyên vấn đề "phân" cũng đã được báo chí ở Sàigòn bình luận không ít: nhập phân, chia phân, thiếu phân, giá phân, đầu cơ phân, tham nhũng…
NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES
Chụp lại hình ảnh,
Một người phụ nữ ngồi bán lẻ xăng gần sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày gần cuối năm 1973
Khủng hoảng dầu lửa mùa Thu năm 1973 đã làm yếu hẳn đi những tiềm năng còn lại của nền kinh tế Miền Nam sau một cuộc chiến khốc liệt kéo dài.
Cú sốc dầu lửa còn ảnh hưởng tới quân sự: nó làm mất đi phần lớn những kết quả của chương trình "Việt Nam Hóa."
Trong kế hoạch giải kết vai trò chiến đấu của Hoa Kỳ (De- Americanization of the war) tại chiến trường Miền Nam, một chương trình gọi là "Việt Nam Hóa" bắt đầu được thực hiện vào giữa năm 1969.
Chương trình này giúp canh tân quân lực Việt Nam Cộng Hòa để có được khả năng tự bảo vệ. Tuy nhiên nó có nhược điểm là việc canh tân lại được phỏng theo mô hình quân đội Hoa Kỳ. Đó là ‘đánh giặc kiểu nhà giàu.’
Theo mô hình này, quân đội Miền Nam tiếp tục dựa vào hai yếu tố chính: hoả lực và di động tính (fire power and mobility). Hoả lực thì luôn cần bom đạn; và về di động tính: luôn cần xăng nhớt cho trực thăng. Đó là chưa kể những vật liệu bảo trì cho quân cụ.
Hai năm sau, vào mùa Thu 1975, VNCH đã không còn tồn tại... Lịch sử miền Nam đã xảy ra như chúng ta đều đã biết.
Mùa thu năm 1973 đã đến với nhân dân Miền Nam như một cơn ác mộng. Bên ngoài thì cứ cho là hậu chiến, nhưng bên trong thì rõ ràng là tiền chiến: sửa soạn cho một cuộc khủng hoảng đã bắt đầu hiện ra ở cuối chân trời. Tưởng chẳng dính líu gì tới Israel, Ả Rập, thế mà khi các con cháu cùng một tổ phụ Abraham đánh nhau thì con cháu Lạc Long Quân lại bị xây xẩm mặt mày.
Ngày nay nhìn lại, có những điều trên chính trường thế giới đã thay đổi nhiều nhưng có những thứ không hề đổi. Ví dụ “Dầu lửa là khí giới của chính trị” (oil is weapon of politics).
Câu hỏi đặt ra là liệu cuộc chiến Israel và Hamas có kéo dài, liệu sự dính líu của Iran với Hamas có lan tỏa sang các nước khác như Ả Rập Saudi, Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Iraq làm cho cú sốc xăng dầu đã nát càng thêm nát?
Các nước ở xa hơn có thể vẫn chịu tác động của xung đột Trung Đông, chứ không thể nói là không liên quan trực tiếp thì không sao.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng (Bộ trưởng) Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn 'Khi Đồng minh Tháo chạy' và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Hoa Kỳ.
TS Nguyễn Tiến Hưng nói xung đột ở Trung Đông tuần qua gợi lại cuộc chiến Yom Kippur mùa Thu 1973 và sức ảnh hưởng tàn phá của nó đối với VNCH.
www.google.com