Video + ảnh Góc ảnh và video đẹp thư giãn mỗi ngày !

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt
Khi đánh giá về sự sụp đổ của nhà Thanh và cuộc Cách mạng Tân Hợi, những điều chúng ta nghe phổ biến thường là những chê trách, đánh giá tiêu cực về chế độ phong kiến tập quyền của người Trung Quốc, đặc biệt khi so với phương Tây hay nước Nhật cùng thời. Hay coi cuộc Cách mạng Tân Hợi của Tôn Trung Sơn như bước tiến lịch sử của nhân dân Trung Hoa. Bài viết này nêu ra vài quan điểm trái với những đánh giá phổ biến trên.

1, Chế độ phong kiến tập quyền của nhà Thanh trước khi mọi chuyện thực sự xảy ra không tệ như chúng ta nghĩ.

Trước nhất ta sẽ tìm hiểu xem chế độ phong kiến Trung Quốc có thật sự “thối nát” trước thời điểm Chiến Tranh Nha phiến mở ra mọi thứ không nhé.

Sống trong thế kỉ 21 với những khái niệm về dân chủ và tự do, chúng ta có xu hướng áp những quan điểm này vào các đánh giá có phần tiêu cực về chế độ quân chủ chuyên chế của nhà Thanh nói riêng và các triều đại Trung Quốc nói chung. Cho rằng đó là nguyên nhân chính dẫn đến sự thảm hại của Trung Quốc vào cuối thời nhà Thanh.

Nền văn minh Trung Hoa là nền văn minh lớn hiếm hoi tồn tại cũng như giữ được vị thế một cách liên tục trong chiều dài lịch sử, dù rằng là nền văn minh ra đời sớm cũng như trải qua nhiều giai đoạn phân ly, giao tranh nội bộ. Có được điều này, ngoài những yếu tố địa lý sơ khai như việc con người xuất hiện sớm ở mảnh đất này, sở hữu hai con sông rất lớn là Hoàng Hà và Trường Giang, được thiên nhiên ưu đãi cho loại cây có thể thâm canh quanh năm là cây lúa….

Các nhà tư tưởng cũng xuất hiện từ khá sớm, đa số đều là các nhà duy vật, họ cho ra đời nhiều hệ tư tưởng không vướng bận với tôn giáo (Trung Quốc không là nơi khởi phát tôn giáo lớn nào, và hãy nhìn cách đất nước duy tâm Ấn Độ mãi không vươn lên vị trí hàng đầu thế giới đi). Chúng ta còn cần phải nhắc tới yếu tố chính trị, khi các triều đại từ Hán cho tới Thanh (trừ giai đoạn 100 năm của triều Nguyên) gần như không có sự thay đổi về thể chế, cũng như ý thức hệ

. Mà ở đây là “Quân chủ chuyên chế” và “tư tưởng Nho giáo” (dù rằng mức độ chuyên chế cũng như phạm vi tác động của Nho giáo trong các triều đại có mức độ khác nhau). Và lịch sử dài ngoằng tên các triều đại phong kiến chính là minh chứng rõ ràng nhất rằng: “chế độ phong kiến tập quyền này đã hoạt động rất tốt”.

Trước nhà Thanh, các triều đại Trung Quốc chẳng có lí do gì để thay đổi thể chế cả.

Nhìn chung, các triều đại quân chủ chuyên chế từ những cải cách đầu tiên của “nhà cách mạng” Tần Thủy Hoàng xoay quanh việc đảm bảo cân bằng quyền lợi của giới cầm quyền, quý tộc,… và tầng lớp nhân dân nghèo đói. Ngày nay, chúng ta thường hay nhắc về tỉ lệ 80% và 20% tức là “80% của cải nằm trong tay 20% dân số và ngược lại”. Tôi tạm gọi tỉ lệ này là tỉ lệ cân bằng, tức là với tỉ lệ này không ai phải đói, hay quá nghèo khổ cả. Vậy chuyên gì sẽ xảy ra nếu tỉ lệ này bị phá vỡ. Chẳng hạn nếu là 95/5, lúc này 95% dân số với chỉ 5% của cải kia sẽ đứng dậy lật đổ chính quyền, như cách Chu Nguyên Chương hay Lưu Bang làm. Còn nếu tỉ lệ này là 70/30, hẳn là giới quý tộc, những kẻ dưới quyền Hoàng đế không hài lòng với điều này, họ sẽ lật đổ Hoàng đế và thay vào đó một người khác khiến họ hài lòng, hoặc đơn giản hơn là tự mình làm vua.

Nói tóm lại, triều đại nào giữ được “tỉ lệ cân bằng” nói trên, hoặc chí ít là hạn chế được sự phá vỡ tỉ lệ một cách hiệu quả càng lâu thì triều đại đó càng có thời gian tồn tại dài.

Quay trở lại nhà Thanh, họ có làm tốt điều trên không? Có chứ, dù không phải người Hán nh

Chính xác thì trước khi những con tàu hơi nước cập bến Trung Quốc, nhà Thanh vẫn làm rất tốt điều này. Ta sẽ bắt đầu vào thời Gia Khánh, kể cả đây là giai đoạn được cho là đi xuống kể từ sau Càn Long, khi mà nạn quan liêu bắt đầu nở rộ. Điển hình nhất là tham quan Hòa Thân (tôi cho rằng nếu Hòa Thân sinh ra ở một quốc gia khác không phải nhà Thanh giàu có, thì khó mà có thể tham ô được số tài sản khổng lồ mà chúng ta biết).




Mâu thuẩn giai cấp bắt đầu lên, nhưng vẫn trong tầm kiểm soát, chưa đến nổi có một cuộc lật đổ, dù sao điều này là tất yếu sau một thời gian dài tồn tại của nhà Thanh. Nhưng kể cả là như vậy, Gia Khánh với các chính sách của ông đã mở rộng hệ thống giao thương đường biển biến Quảng Châu thành cảng biến sầm uất, bản thân Trung Quốc giàu lên nhờ những món hàng rất chạy của họ như tơ lụa, gốm sứ và đặc biệt là trà.

Thế rồi thói quen uống trà của người Anh, biến Trung Quốc thành cái máy hút bạc từ túi người Châu Âu. Người Âu lại chẳng bán lại được bất cứ cái gì cho người Trung Quốc, bởi nền kinh tế tự túc hàng ngàn năm qua vẫn đang vận hành một cách rất tốt. Xét trên mặt bằng chung thế giới, người Trung Quốc vẫn giàu, vẫn là quốc gia khổng lồ với hơn bốn trăm triệu dân. Vậy tại sao họ, nhà Thanh cần phải thay đổi, trong khi quốc gia của họ vẫn đang vận hành tốt và hơn hết chẳng có mối đe dọa nào tới vị trí cầm quyền của dòng tộc Mãn Châu cả.

Bạn có thể thấy nước Mỹ vào thời nay không phải là đất nước có hứng lắm trong việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, cũng chẳng quá bận tâm vì các kĩ sư đang ít đi do tỉ trọng kinh tế sản xuất giảm hay tham gia vào phát triển mạng 5G, vì họ vẫn giàu, mạnh và giới cầm quyền vẫn ngồi vững. Hay thực tế rằng Minh Trị chẳng cần cải cách, thậm chí trước đó Hideyoshi cũng chẳng cần lao vào xâm lược Triều Tiên khi chỉ vừa thống nhất nếu nước Nhật đủ chứa được số dân ngày một tăng nhanh khủng khiếp của mình. Người ta chỉ thay đổi khi họ buộc phải đổi thay thôi.

Mọi chuyện bắt đầu tệ đi khi Hoàng gia Anh cuối cùng cũng tìm được môt món hàng mà các Ái Tân Giác La từ thời Ung Chính cấm tiệt dân chúng bán, để cân bằng lại nền kinh tế. Đó là thuốc phiện. Triều đình nhà Thanh với chính sách ngăn chặn thuốc phiện khắt khe của mình, vô tình đụng tới quyền lợi của đám thương nhân Anh, nhưng kẻ tất tay cho ngành công nghiệp thuốc phiện. Để đòi lại quyền lợi cho đám người này, người Anh gây nên Chiến tranh Thuốc Phiện (1839). Và từ đây nền kinh tế số một lịch sử thế giới lao dốc không phanh, mở đầu với các khoản chiến phí và bồi thường cho cuộc chiến. Các cuộc chiến với kết quả tương tự diễn ra nhiều hơn vắt kiệt tiền bạc của người Trung Quốc, khi các nước đế quốc khác học theo Anh nhảy vào Trung Quốc.

Kết thúc mục 1 này, tôi muốn khẳng định quan điểm, cổ máy phong kiến thời nhà Thanh vẫn hoạt động tốt ít nhất là trước khi các đế quốc tham lam xuất hiện, nó không cần sửa chữa và chỉ hỏng khi có kẻ từ bên ngoài đập phá, mà khi bị tàn phá thì bộ máy loại nào cũng hỏng thôi. Vì vậy đừng nên đổ lổi hoàn toàn cho chế độ quân chủ chuyên chế trong sự thụt lùi của Trung Quốc. Vài quyết định sai lầm của giới cầm quyền đóng vai trò quan trọng hơn, nếu bước đi đúng có lẽ vẫn có một Trung Quốc phát triển dưới triều đại nhà Thanh.

2, Thực sự nhà Thanh đã có những cải cách nhất định dù không nhiều.

Quang Tự và những người đồng chí với ông nếu thành công trong cuộc Duy tân năm 1898 của mình có thể nhà Thanh, đã không sụp đổ, Trung Hoa đã có thể vào thời kì Âu hóa, chẳng nên nổi khốn cùng. Nhưng trước đó, một phong trào tự cường diễn ra vào đầu những năm 1860 của những đại thần như Lý Hồng Chương, Tăng Quốc Phiên cũng đã diễn ra trên diện rộng đem lại những tác động tích cực lên xã hội.

Trước cả khi Minh Trị Duy tân (1866-1869). Quang Tự và các đại thần nhiều người đã có trong mình tâm thế cải cách, và thực sự đã bắt tay vào làm. Đây là minh chứng rõ rằng, vấn đề không nằm ở chế độ (ít nhất lúc đó) mà nằm ở yếu tố con người. Bởi những nhà Nho thuần túy như Tăng Quốc Phiên cũng biết canh tân đấy thôi.

Khách quan mà nói, Duy tân thay đổi ở một nước nhỏ như Nhật Bản trong thế ít bị đe dọa hơn, dễ dàng và nhanh chóng hơn nhiều so với Mãn Thanh. Tiếc rằng, dù ra đời sớm hơn những tư tưởng của Minh Trị, các cải cách của người Trung Quốc không thực hiện được đến nơi đến chốn do những cái tên như Hồng Tú Toàn trong cuộc nổi dậy đem lại thiệt hại nhân mạng ngang thế chiến 2 hay Viên Thế Khải khi ông này phản bội lòng tin của vua Quang Tự.

Dù Quang Tự thất bại. Nhà Thanh sau chiến tranh Giáp Ngọ () với Nhật đã ngộ ra nhiều điều về cải cách, không phải lần đầu thất bại trước ngoại bang bởi thua thiệt vũ khí và chiến thuật. Nhưng lần này họ thua trước chính người Nhật, một quốc gia Châu Á, thậm chí ngày xưa bị họ khinh miệt gọi là Oa Khấu (giặc lùn), và chính người Nhật đã cho họ thấy một nước châu Á có thể mạnh thế nào nếu tiến hành những cải cách quân sự đúng đắn.

Quân đội Bắc Dương phiên bản âu hóa hoàn toàn chính thức ra đời năm 1905, có lẽ hơi muộn khi các nước đế quốc đã chia xong Trung Quốc.

Sau hàng loạt cuộc chiến, nhà Thanh nợ ngập đầu bởi số tiền vay của các đế quốc. Cộng với hàng loạt hiệp ước bất bình đẳng. Giới tư bản phương Tây bắt đầu làm chủ Trung Quốc, điều này vô tình kích thích ngành công thương nghiệp ở Trung Quốc dù còn rất nhiều khiếm khuyết. Nhưng giai đoạn đầu nhưng năm 1900, các ngành khai khoáng than, thép, sản xuất vũ khí, đóng tàu dệt may, đường sắt đều đã xuất hiện ở Trung Quốc.

3, Cách mạng Tân Hợi không đem lại chuyển biến tích cực hơn so với sự tồn tại của nhà Thanh.

Lực lượng cách mạng của Tôn Trung Sơn ở miền Nam cuối cùng cũng đứng lên lật đổ chính quyền nhà Thanh vào năm 1911. Một cuộc lật đổ mà chúng ta phải thừa nhận rằng, nhà Thanh hoàn toàn có thể nghiền nát nó nếu không có sự phản bội của Viên Thế Khải.

Viên Thế Khải muốn nhận được phần thưởng như cái cách ông được Từ Hi cho nắm quyền khi phản bội vua Quang Tự vậy. Ông chấp nhận giao kèo của Tôn Trung Sơn để mình lên làm tổng thống Trung Hoa Dân Quốc ngay khi phết truất Hoàng đế Phổ Nghi mới chỉ vài tuổi. Tôn Trung Sơn có vẽ không phải là người giữ chử tín nên luôn tìm cách kìm hãm Viên.

Sự đối địch của Viên và Tôn, khiến năm năm sau cách mạng, năm 1916, Viên Thế Khải chết để lại khoảng trống người đứng đầu Trung Hoa và thời Chiến quốc lại mở ra với hàng loạt chế độ quân phiệt. Cuộc cách mạng chẳng giải quyết được bất cứ vấn đề gì ngoài trừ lật đổ nhà Thanh để thỏa lòng mong mỏi với giai cấp tư sản vốn căm ghét Từ Hi, ruộng đất cho nông dân không được giải quyết, không dám đụng chạm đến nước đế quốc (bởi là đối tác làm ăn của tư sản) để sau cùng để họ bơm tiền cho các quân phiệt, kéo Trung Quốc vào 10 năm hỗn chiến. Và sau đó nữa là chiến tranh Quốc/Cộng. Kết quả là khởi đầu năm 1949, sau khi thống nhất, công nghiệp của nước này còn tệ hơn thời cuối nhà Thanh.

Một lần nữa, nếu nhà Thanh có thể ổn định đất nước thêm được 20 năm, chúng ta có thể thấy Trung Quốc và Nhật Bản nắm tay nhau vượt lên cường quốc phương Tây ở phương Đông vào năm 1940, cũng như Trung Quốc năm 1978, chỉ hai mươi năm sau khi thống nhất, Hoặc chí ít là cân bằng với Liên Xô năm 1918. Thay vì mua đạn của phương Tây và tham gia một cuộc hỗn chiến vô bổ.

Kết bài viết này, tôi cho rằng, nhà Thanh đã ở đỉnh cao của chế độ phong kiến cũng như văn minh nông nghiệp. Họ bỡ ngỡ trước công nghiệp hóa. Điều đó khiến các cá nhân lãnh đạo không muốn hoặc không thể nghĩ tới tác động to lớn của thời đại công nghiệp, bởi dẫu sao họ cũng không thể sống tới ngày nay để nhìn lại lịch sử như chúng ta.

Sự chậm trễ trong các cải cách đổi mới, một phần trở ngại không đến từ chính quyền, mà đến từ chính những cuộc nổi loạn, hay cuối cùng là cuộc cách mạng đem lại rất ít ý nghĩa năm 1911.



Ngô Mạnh Đức / ncls group
 

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt

Thời sự tại sao người Việt thích ăn cắp ?​

Chính tồn tại khách quan đó tạo cho người Kinh không hướng đến việc tích lũy trí tuệ mà chỉ hướng tới ứng xử khôn khéo. Cuộc sống khó khăn do thời tiết khắc nghiệt, vậy nên buộc người ta phải biết thu vén cho bản thân, cho gia đình, dòng họ của mình. Thậm chí, để thu vén được, người ta phải ăn cắp vặt. Vậy nên, có thể nói, ăn cắp vặt cũng là một cách ứng xử cho phù hợp thực tiễn", ông Vỹ nêu quan điểm.
Ăn cắp vặt vì không có tôn giáo

Ở một góc độ khác, ông Nguyễn Hùng Vỹ cho rằng, chính tồn tại khách quan của người Kinh đã khiến họ không thể tạo ra được năng lượng tập trung, không có xu hướng tích lũy những năng lượng tinh thần. Vì thế, "người Kinh không sản sinh ra những tôn giáo, triết thuyết, lý thuyết khoa học mang tính phổ quát mà cơ sở hiện thực đã hướng con người ta tới sự có lợi trước sự phức tạp của tự nhiên và xã hội".

Cũng theo ông Vỹ, khi có một tôn giáo cụ thể, người ta sẽ thần thánh hóa lên, lấy những quy tắc, quy ước của tôn giáo đó làm "kim chỉ nam" cho mọi hành động. Chẳng hạn, khi tôn giáo quy định không được tự ý lấy đồ của người khác, nếu không sẽ bị lên án, bị cô lập... thì người theo tôn giáo đó sẽ tuân thủ nghiêm ngặt. Đằng này, vì người Kinh không sản sinh ra được tôn giáo nào, chỉ lo ứng xử với thực tiễn nên chưa bao giờ pháp luật được coi trọng. "Có Phật giáo khuyên người ta không ăn cắp nhưng giờ ta phá hết rồi, đừng có tưởng ta có tôn giáo. Thế nên, chuyện lấy trộm đồ của người khác cũng dễ hiểu thôi, vì người ta có biết sợ cái gì đâu", ông Vỹ nói.
Theo PGS.TS Lê Quý Đức, nguyên Viện phó Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Uncle Lake thì ngoài những yếu tố do lòng tham cố hữu của con người, do đời sống khó khăn nên "bần cùng sinh đạo tặc" thì còn có nguyên do là người Việt "không có ý thức về cá nhân và cộng đồng".

"Trong xã hội truyền thống, hình như người Việt chưa đủ trình độ nhận thức giữa cái chung với cái riêng, cái của cộng đồng - của người khác với cái của mình nên mới sinh ra chuyện cứ lấy được của ai thứ gì về cho mình là tốt. Nó là đặc tính chung của xã hội truyền thống mà ở đó cứ hở ra là lấy", theo ông Đức.

Lý giải cho việc không phân định được cái riêng - cái chung, ông Đức cho rằng, ngày xưa, trong quan hệ cộng đồng làng xã là phi kinh tế, có thể sử dụng đồ đạc của nhau thoải mái, kiểu nhà tôi gieo được luống rau, anh có thể sang hái bất cứ lúc nào mà không cần hỏi ý kiến và ngược lại. Cứ thế, nó ăn sâu vào cách nghĩ, cách làm của người Việt, dần tạo thành thói quen cho đến ngày nay.

Do quản lý xã hội

Ông Lê Quý Đức bổ sung thêm: Trong một xã hội mà "cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan", dân chúng sẽ nhìn vào đó và nghĩ rằng đến quan còn đi ăn cướp thì hỏi gì là của chung, của riêng nữa. Chẳng thế mà có câu "Trống đình ai đánh thì thùng, của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng".

Ông dẫn chứng: "Thời Mạc Đăng Doanh thế kỷ XVI được Lê Quý Đôn ghi trong Đại Việt thông sử rằng: Của rơi ngoài đường không ai nhặt, đêm nằm nhà cửa không cần đóng then cài chốt, trâu bò để ngoài đồng nó sinh con đẻ cái rồi dắt nhau về nhà. Rõ ràng, thời ấy thái bình như thế cũng là do quản lý chặt chẽ thôi".

Như vậy, để ăn cắp vặt xảy ra có một phần nguyên do luật pháp chưa nghiêm. "Đương nhiên là phải trừ nhóm người ăn cắp vặt do bệnh lý ra", ông Đức nêu quan điểm.

Nhìn nhận về thói ăn cắp vặt hiện nay, cả ông Nguyễn Hùng Vỹ và ông Lê Quý Đức đều cho rằng "vẫn rất phổ biến". Bởi cùng với những lý do đã chỉ ra ở trên thì có một thời gian khá dài, "chúng ta sống trong mô hình hợp tác xã. Từ viên gạch, gánh phân trâu bò cũng là của hợp tác xã. Anh đi qua nhân lúc không ai để ý thì nhặt một viên gạch cất vào trong người mang về để tích trữ phòng khi cần đến. Hay ra đường, thấy cành củi khô ai làm vương ra cũng đút vội vào túi quần để đem về nhóm bếp lò... Sống trong bối cảnh ấy, người ta phải hành xử như thế và dần dần nó định hình thành thói quen, tính cách", ông Đức phân tích.

Bây giờ, ăn cắp vặt diễn ra muôn hình vạn trạng và cũng rất tinh vi. "Tham nhũng cũng chính là biểu hiện của ăn cắp vặt, từ cái thói ăn cắp vặt mà sinh ra cả thôi. Và nó cũng chẳng loại trừ nhóm đối tượng nào, quan to ăn to, quan bé ăn bé, đứa chăn nghé ăn đòng đòng", ông Lê Quý Đức nói.

Theo các nhà nghiên cứu, xóa bỏ ăn cắp vặt không hề dễ vì đó còn là sản phẩm của lịch sử. Muốn giảm bớt ăn cắp vặt trong cuộc sống, bên cạnh việc đẩy mạnh giáo dục thì luật pháp cũng cần nghiêm minh, trong đó không thể không đề cập đến yếu tố làm gương trong xã hội. Ông Nguyễn Hùng Vỹ cho rằng, trước tiên, những người làm công tác quản lý phải làm gương để xã hội noi theo.
Nói là người Việt Nam ăn cắp vặt thì phải xét trong vấn đề thời gian, thời điểm cụ thể. Tôi sống ở Thủ đô trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám đến 1953, thời đó làm gì có ăn cắp vặt. Đến kẻ cắp chợ Đồng Xuân nổi tiếng lắm mà đi làm tự vệ, chợ Đồng Xuân làm đồn đánh thực dân Pháp, gái giang hồ đi làm cứu thương, địa chủ hiến ruộng, tư sản có "tuần lễ vàng" hiến vàng. Bây giờ, ăn cắp vặt nhan nhản cũng là vì chúng ta thiếu định chế quản lý xã hội. Thời Tây cai trị tôi còn nhỏ nhưng giai đoạn 1945 - 1953 thì tôi đã lớn, đã hiểu chuyện, tôi nghĩ do thời ấy hình luật rất nghiêm, kẻ nào ăn cắp sẽ bị trừng trị thẳng tay, đó cũng là một nguyên nhân khiến người ta không dám ăn cắp".
Nhà nghiên cứu văn hóa Hữu Ngọc
 

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt
Xuân giang hoa nguyệt dạ

Xuân giang triều thuỷ liên hải bình,
Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.
Diễm diễm tuỳ ba thiên vạn lý,
Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh.
Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện,
Nguyệt chiếu hoa lâm giai tự tiển.
Không lý lưu sương bất giác phi,
Đinh thượng bạch sa khan bất kiến.
Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,
Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.
Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?
Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân?
Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,
Giang nguyệt niên niên chỉ tương tự.
Bất tri giang nguyệt đãi hà nhân,
Đãn kiến trường giang tống lưu thuỷ.
Bạch vân nhất phiến khứ du du,
Thanh phong phố thượng bất thăng sầu.
Thuỳ gia kim dạ thiên chu tử,
Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?
Khả liên lâu thượng nguyệt bồi hồi,
Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.
Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,
Đảo y châm thượng phất hoàn lai.
Thử thời tương vọng bất tương văn,
Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.
Hồng nhạn trường phi quang bất độ,
Ngư long tiềm dược thuỷ thành văn.
Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa,
Khả liên xuân bán bất hoàn gia.
Giang thuỷ lưu xuân khứ dục tận,
Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.
Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,
Kiệt Thạch, Tiêu Tương vô hạn lộ.
Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy,
Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.

Dịch nghĩa

Đêm trăng hoa trên sông xuân

Thuỷ triều lên, mặt sông xuân ngang mặt bể,
Trên bể, trăng sáng cùng lên với thuỷ triều.
Lấp loáng theo sóng trôi muôn ngàn dặm,
Có nơi nào trên sông xuân là không sáng trăng?
Dòng sông lượn vòng khu cồn hương thơm,
Trăng chiếu rừng hoa ngời như hạt tuyết.
Trên sông sương trôi tưởng như không bay
Bãi sông cát trắng, nhìn chẳng nhận ra
Sông và trời, một màu không mảy bụi,
Ngời sáng trong không, vầng trăng trơ trọi
Người bên sông, ai kẻ đầu tiên thấy trăng?
Trăng trên sông, năm nào đầu tiên rọi xuống người?
Người sinh đời đời không bao giờ ngừng
Trăng trên sông năm năm ngắm vẵn y nguyên
Chẳng biết trăng trên sông chiếu sáng những ai
Chỉ thấy sông dài đưa dòng nước chảy
Mây trắng một dải, vẩn vơ bay
Cây phong biếc xanh trên bờ buồn khôn xiết
Người nhà ai đêm nay dong con thuyền nhỏ
Người nơi nao trên lầu trăng sáng đương tương tư?
Đáng thương cho trên lầu vầng trăng bồi hồi
Phải chiếu sáng đài gương người biệt ly
Rèm nhà ngọc cuốn lên rồi, trăng vẫn không đi
Phiến đá đập áo lau đi rồi, trăng vẫn cứ lại
Giờ đây cùng ngắm trăng mà không cùng nghe tiếng nhau
Nguyện theo ánh đẹp vầng trăng trôi tới chiếu sáng bên người
Chim hồng nhạn bay dài không thể mang trăng đi
Cá rồng lặn nhảy, chỉ khiến làn nước gợn sóng
Đêm qua thanh vắng, mơ thấy hoa rơi,
Đáng thương cho người đã nửa mùa xuân chưa về nhà
Nước sông trôi xuôi, xuân đi sắp hết
Trăng lặn trên bãi sông, trăng xế về tây
Trăng xế chìm dần lẩn trong sương mù mặt bể
Núi Kiệt Thạch, sông Tiêu Tương đường thẳm không cùng
Chẳng biết nhân ánh trăng đã mấy người về
Trăng lặn, rung rinh mối tình, những cây đầy sông.
 

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt
Xuân giang hoa nguyệt dạ

Xuân giang triều thuỷ liên hải bình,
Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.
Diễm diễm tuỳ ba thiên vạn lý,
Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh.
Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện,
Nguyệt chiếu hoa lâm giai tự tiển.
Không lý lưu sương bất giác phi,
Đinh thượng bạch sa khan bất kiến.
Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,
Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.
Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?
Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân?
Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,
Giang nguyệt niên niên chỉ tương tự.
Bất tri giang nguyệt đãi hà nhân,
Đãn kiến trường giang tống lưu thuỷ.
Bạch vân nhất phiến khứ du du,
Thanh phong phố thượng bất thăng sầu.
Thuỳ gia kim dạ thiên chu tử,
Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?
Khả liên lâu thượng nguyệt bồi hồi,
Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.
Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,
Đảo y châm thượng phất hoàn lai.
Thử thời tương vọng bất tương văn,
Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.
Hồng nhạn trường phi quang bất độ,
Ngư long tiềm dược thuỷ thành văn.
Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa,
Khả liên xuân bán bất hoàn gia.
Giang thuỷ lưu xuân khứ dục tận,
Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.
Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,
Kiệt Thạch, Tiêu Tương vô hạn lộ.
Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy,
Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.

Dịch nghĩa

Đêm trăng hoa trên sông xuân

Thuỷ triều lên, mặt sông xuân ngang mặt bể,
Trên bể, trăng sáng cùng lên với thuỷ triều.
Lấp loáng theo sóng trôi muôn ngàn dặm,
Có nơi nào trên sông xuân là không sáng trăng?
Dòng sông lượn vòng khu cồn hương thơm,
Trăng chiếu rừng hoa ngời như hạt tuyết.
Trên sông sương trôi tưởng như không bay
Bãi sông cát trắng, nhìn chẳng nhận ra
Sông và trời, một màu không mảy bụi,
Ngời sáng trong không, vầng trăng trơ trọi
Người bên sông, ai kẻ đầu tiên thấy trăng?
Trăng trên sông, năm nào đầu tiên rọi xuống người?
Người sinh đời đời không bao giờ ngừng
Trăng trên sông năm năm ngắm vẵn y nguyên
Chẳng biết trăng trên sông chiếu sáng những ai
Chỉ thấy sông dài đưa dòng nước chảy
Mây trắng một dải, vẩn vơ bay
Cây phong biếc xanh trên bờ buồn khôn xiết
Người nhà ai đêm nay dong con thuyền nhỏ
Người nơi nao trên lầu trăng sáng đương tương tư?
Đáng thương cho trên lầu vầng trăng bồi hồi
Phải chiếu sáng đài gương người biệt ly
Rèm nhà ngọc cuốn lên rồi, trăng vẫn không đi
Phiến đá đập áo lau đi rồi, trăng vẫn cứ lại
Giờ đây cùng ngắm trăng mà không cùng nghe tiếng nhau
Nguyện theo ánh đẹp vầng trăng trôi tới chiếu sáng bên người
Chim hồng nhạn bay dài không thể mang trăng đi
Cá rồng lặn nhảy, chỉ khiến làn nước gợn sóng
Đêm qua thanh vắng, mơ thấy hoa rơi,
Đáng thương cho người đã nửa mùa xuân chưa về nhà
Nước sông trôi xuôi, xuân đi sắp hết
Trăng lặn trên bãi sông, trăng xế về tây
Trăng xế chìm dần lẩn trong sương mù mặt bể
Núi Kiệt Thạch, sông Tiêu Tương đường thẳm không cùng
Chẳng biết nhân ánh trăng đã mấy người về
Trăng lặn, rung rinh mối tình, những cây đầy sông.
trung quốc nó làm duyệt binh nó tốn tiền lắm.

nó huy động cả đống quân về bắc kinh, lính đó nó ko ở doanh trại. mà nó xây dựng lều dã chiến, có điều hòa, giường ngủ...

nó huy động cả xe toilet di động, xe chở chất thải, rồi xe giặt ủi quần áo di động, xe kỹ thuật bảo dưỡng súng, xe bếp nấu ăn...

toàn tiền và tiền không đó ae

 

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt
trung quốc nó làm duyệt binh nó tốn tiền lắm.

nó huy động cả đống quân về bắc kinh, lính đó nó ko ở doanh trại. mà nó xây dựng lều dã chiến, có điều hòa, giường ngủ...

nó huy động cả xe toilet di động, xe chở chất thải, rồi xe giặt ủi quần áo di động, xe kỹ thuật bảo dưỡng súng, xe bếp nấu ăn...

toàn tiền và tiền không đó ae


Nhật Bản đã chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh sinh học quy mô lớn chống lại Liên Xô, Trung Quốc, cũng như Mỹ và Anh trong nhiều năm. Chỉ có cuộc tấn công thần tốc của Hồng quân vào tháng 8 năm 1945 mới ngăn cản được những kế hoạch này. "Biệt đội 731" đã vội vàng "che đậy dấu vết", phá hủy "cơ sở sản xuất" và hầu hết những người chứng kiến, thậm chí là chính nhân viên của họ. Nhưng không thể giấu được mọi chuyện. Một số "nhà khoa học" - những kẻ cuồng tín đã bị Liên Xô bắt giữ.
Nhưng các bị cáo chính của "Biệt đội 731", với người đứng đầu - nhà vi sinh vật học, trung tướng Ishii Shiro - đã tìm thấy sự bảo trợ ở bên kia Thái Bình Dương! Họ chia sẻ "kinh nghiệm" của mình với người Mỹ để đổi lấy quyền miễn trừ cá nhân. Sau đó, họ đã tích cực giúp đỡ tại trung tâm của các chương trình phát triển vũ khí sinh học tại Fort Detrick (Maryland). Nói chung, theo dữ liệu mới nhất từ chính người Mỹ (Trường Kinh tế Harvard), hơn 3 600 nhà sinh vật học Nhật Bản tham gia vào chương trình vũ khí vi khuẩn đã tìm thấy nơi trú ẩn tại Hoa Kỳ.
Cuối năm 1949, một phiên tòa đã diễn ra ở Khabarovsk đối với 12 tội phạm chiến tranh Nhật Bản, trong đó có cựu tư lệnh đội quân Quan Đông, tướng Yamada Otozo. Họ bị buộc tội tạo ra và sử dụng vũ khí vi khuẩn, không một nạn nhân nào sống sót trong các "thí nghiệm" của các "nhà khoa học" Nhật Bản - những kẻ giết người.
Tất cả 12 bị cáo trong phiên tòa ở Khabarovsk đều nhận tội và phải chịu mức án tù từ 2 đến 25 năm.
Hồng quân đã cứu thế giới thoát khỏi cuộc chiến tranh vi trùng
Ngày 20/8/1945, Hồng quân giải phóng Mãn Châu, nơi tập trung các cơ sở chính của Nhật Bản để phát triển vũ khí vi trùng. Như vậy, quân đội Liên Xô đã cứu thế giới khỏi một thảm họa mới - chiến tranh vi trùng do Nhật Bản lên kế hoạch thực hiện.
năm 1945 Nhật Bản đã chuẩn bị cho cuộc chiến vi khuẩn chống lại Liên Xô
Bất chấp Chiến tranh thế giới thứ hai đang tới hồi kết thúc, vào tháng 3 năm 1945 Nhật Bản vẫn chuẩn bị cho một cuộc chiến vi khuẩn chống lại Liên Xô. Theo tính toán của Tokyo cuộc chiến này sẽ phải bắt đầu vào tháng 6 cùng năm, căn cứ các tài liệu được FSB giải mật bởi.


Hồng quân đã cứu thế giới thoát khỏi cuộc chiến tranh vi khuẩn
Ngày 20/8/1945, Hồng quân giải phóng Mãn Châu, nơi tập trung các cơ sở chính của Nhật Bản để phát triển vũ khí vi khuẩn. Như vậy, quân đội Liên Xô đã cứu thế giới khỏi một thảm họa mới - chiến tranh vi khuẩn do Nhật Bản lên kế hoạch thực hiện.

biên bản hỏi cung Sei Yamamoto, một nhân viên của đơn vị đặc biệt 731 thuộc Quân đội Kwantung. Người này khai rằng đã tìm kiếm cách thức bảo tồn lâu dài khả năng kháng thuốc của vi khuẩn lao và phó thương hàn "B" để sử dụng trong chiến tranh vi khuẩn.
"Tất cả các nghiên cứu về vi khuẩn lao và phó thương hàn "B" mà tôi đã đích thân tiến hành ... đều được thực hiện với mục đích sử dụng chúng làm vũ khí trong cuộc chiến chống Liên Xô mà theo tôi biết sẽ bắt đầu vào tháng 6 Năm 1945. "
Đơn vị 731
Trong các đơn vị 731 và 100 đã diễn ra thí nghiệm về việc lây nhiễm vi khuẩn bệnh dịch hạch, bệnh than, bệnh tả, thương hàn và các vi khuẩn khác cho người. Hầu hết những người bị nhiễm bệnh đều chết trong sự đau đớn khủng khiếp. Những người hồi phục lại bị mang ra thí nghiệm nhiều lần và cuối cùng cũng bị giết. Quân đội Nhật Bản đã tiến hành các thí nghiệm vô nhân đạo khác trên con người, để cuối cùng đưa đến cái chết của họ.

Câu chuyện kinh hoàng về Đơn vị 731 của Nhật chuyên tiến hành những thí nghiệm khủng khiếp trên người dưới vỏ bọc "nghiên cứu chiến tranh" trước và trong Thế chiến II lại một lần nữa được phơi bày trong cuốn sách có nhan đề “Đơn vị 731: Phòng thí nghiệm của ác quỷ, Auschwitz của phương Đông” được xuất bản gần đây.
Hơn 3.000 người, chủ yếu là người Trung Quốc và cả tù binh chiến tranh Nga, Anh, Mỹ đã bị các nhà nghiên cứu của Đơn vị 731 coi như chuột bạch để trị bệnh hoại tử vì tê cóng.
Đơn vị 731 được thành lập năm 1936 ở Cáp Nhĩ Tân, đông bắc Trung Quốc để quân đội Nhật hoàng tiến hành nghiên cứu về các mầm bệnh thời chiến, khả năng của vũ khí và những giới hạn của con người. Đơn vị được công bố rộng rãi là Cục Phòng chống dịch bệnh và xử lý nước Đạo quân Quan Đông. Được thành lập bởi Hiến binh của Đế quốc Nhật Bản, Đơn vị 731 được điều hành bởi Tư lệnh Ishii Shiro đến tận khi kết thúc chiến tranh.

Đơn vị 731 được đặt tại quận Bình Phòng thuộc thành phố Cáp Nhĩ Tân, thành phố lớn nhất trong chính quyền bù nhìn Mãn Châu Quốc (giờ là đông bắc Trung Hoa). Hơn 10.000 người - tức khoảng 600 người mỗi năm bị Hiến binh Nhật bắt giữ để làm vật thí nghiệm cho dự án 731.

Hơn 95% tổng số nạn nhân chết trong trại tập trung ở Bình Phòng là người Trung Quốc và Hàn Quốc, bao gồm cả binh lính và dân thường. 5% còn lại là người Đông Nam Á, người ở Thái Bình Dương, người dân thuộc địa của Đế quốc Nhật Bản, và một số nhỏ tù binh chiến tranh trong Thế chiến II...
Hình ảnh về những nghiên cứu và thử nghiệm ghê rợn của đơn vị trên mới đây đã xuất hiện trong cuốn sách có nhan đề “Đơn vị 731: Phòng thí nghiệm của ác quỷ, Auschwitz của phương Đông”. Các bức ảnh cho thấy binh sĩ Nhật tham gia giải phẫu sống - tiến hành những cuộc phẫu thuật trên người sống để nghiên cứu các bộ phận và mô sống.

Các thí nghiệm và giải phẫu trên nam, nữ và trẻ em đều được tiến hành trong tình trạng không tiêm thuốc tê để kết quả không bị thuốc tác động. Các tù nhân sẽ bị cho nhiễm bệnh, rồi sau đó, nội tạng của họ được lấy để các nhà khoa học nghiên cứu tác động của bệnh trước khi nó phân hủy.

Ngoài ra, tù nhân còn bị chặt tay chân để các nhà khoa học thuộc Đơn vị 731 nghiên cứu tình trạng mất máu. Tiếp đó, các bộ phận sẽ được gắn lại ở phía bên kia của cơ thể, các tài liệu ghi chép cho thấy.Các nhà khoa học Nhật còn dùng tù nhân để nghiên cứu các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

Theo đó, các tù nhân nhiễm bệnh giang mai bị ép quan hệ tình dục với tù nhân khỏe mạnh để nghiên cứu virus lây lan như thế nào. Cũng theo các nhà sử học, các bác sĩ Nhật thời Thế chiến II đã tiêm máu động vật vào người sống hoặc buộc người nhiễm bệnh ở chung xà lim với người khỏe để tìm hiểu cách thức lây nhiễm bệnh.

Một số nạn nhân của Đơn vị 731 đã chết, một số khác được cho là bị chôn sống hoặc chết chìm. Ngoài việc tiến hành các thí nghiệm ghê rợn, Đơn vị 731 còn thả vi khuẩn gây bệnh thương hàn, tả và nhiều bệnh khác xuống hệ thống nước ở các làng của Trung Quốc.

Theo Hội thảo quốc tế về tội ác của chiến tranh vi khuẩn năm 2002, số người bị giết bởi Quân đội Đế quốc Nhật qua thử nghiệm vi khuẩn trên người là khoảng 580.000 người. Theo một số nguồn khác, việc sử dụng vũ khí sinh hóa nghiên cứu bởi Đơn vị 731 đã dẫn tới hơn 200.000 cái chết của cả binh lính và dân thường Trung Quốc.

Ban đầu, Chính phủ Nhật phủ nhận sự tồn tại của Đơn vị 731. Tuy nhiên, năm 1998, Tòa án tối cao Nhật đã thừa nhận gián tiếp về lực lượng này qua một phán quyết. Người chịu trách nhiệm chính về Đơn vị 731 là Trung tướng Shiro Ishii cũng như nhiều nhân vật khác đã được Tòa án quân sự quốc tế khu vực Cận Đông miễn trừ xét xử sau khi họ giao cho Mỹ các dữ liệu thí nghiệm về mầm bệnh thời chiến.

Gần đây, Cơ quan lưu trữ quốc gia Nhật đã công bố tên của 3.607 thành viên của Đơn vị 731 khét tiếng, trong đó có 52 bác sĩ phẫu thuật, 49 kỹ sư, 38 y tá và 1.117 bác sĩ dã chiến. Đây là lần đầu tiên, hầu hết tên thật và địa chỉ của các thành viên Đơn vị 731 được tiết lộ trong các tài liệu chính thức. Những người có trong danh sách này có thể sẽ phải ra hầu tòa vì những tội lỗi man rợ họ gây ra năm xưa.
Thành lập vào năm 1935, Đơn vị 731 ban đầu được biết đến rộng rãi với tên gọi 'Cục phòng chống dịch bệnh và xử lý nước Đạo quân Quan Đông' do Tướng Shiro Ishii quản lý.

Tuy nhiên, trên thực tế, 731 lại 'nổi danh' với những cuộc thử nghiệm vũ khí nguy hiểm trên cơ thể trên cơ thể người trong Thế chiến 2.

Trụ sở chính của 731 được đặt tại quận Bình Phòng của thành phố Cáp Nhĩ Tân, Đông Bắc Trung Quốc ngày nay với diện tích lên tới 6km2 và hơn 150 tòa nhà.

Suốt 10 năm tồn tại, Đơn vị 731 được cho là đã gây nên cái chết của gần 200.000 người, phần lớn trong số đó là từ Trung Quốc và Hàn Quốc. Ngoài ra, còn có các tù binh chiến tranh tại phương Tây và Đông Nam Á..
Không giống như các nhà tù Do thái của Đức quốc xã, mục đích chính của Đơn vị 731 là nghiên cứu các chương trình vũ khí hóa - sinh.

Tù nhân tại Đơn vị 731 được sử dụng như những đối tượng thí nghiệm và phải trải qua những màn tra tấn kinh hoàng như cắt tứ chi, giải phẫu hay bị nổ tung cả cơ thể...

Một cựu thành viên của Đơn vị 731 đã miêu tả về quá trình giải phẫu trên cơ thể các đối tượng thí nghiệm như sau:

'Nạn nhân sẽ được tắm rửa sạch sẽ trước khi đưa lên bàn mổ. Một người sẽ dùng ống nghe để kiểm tra nhịp tim. Sau đó, người còn lại sẽ phẫu thuật trên cơ thể nạn nhân mà không sử dụng thuốc gây tê'.


Để tìm ra phương thức chữa trị cho các binh sĩ bị thương bởi mảnh bom đạn, Đơn vị 731 từng trói các tù nhân và để họ đứng tại nhiều khoảng cách nhau rồi kích hoạt khối thuốc nổ. Những người còn sống sót sẽ được phẫu thuật và nghiên cứu.

Bên cạnh bom, các tù nhân cũng được sử dụng như bia đỡ trong các cuộc thử nghiệm súng phun lửa hoặc vũ khí hóa học.

Một số tù binh bị tháo rời tay để nghiên cứu ảnh hưởng của việc mất máu. Đôi khi, những cánh tay cũng được gắn lại hoặc bị nhúng vào bể đá để quan sát quá trình hoại tử.

Các nạn nhân khác thì bị nhốt trong phòng ngạt khí ga với những loại vũ khí hóa học độc hại.

'Luôn có từ 2.000 - 3.000 người được chuẩn bị sẵn sàng để thí nghiệm. Có 2 lò hỏa thiêu hoạt động cả ngày lẫn đêm,' Shoichi Matsumoto, một phi công ném bom của Đơn vị 731, nhớ lại.

Khi Thế chiến 2 bước vào giai đoạn cuối cùng, các nhà khoa học thuộc Đơn vị 731 đã phá hủy hầu hết bằng chứng của chương trình. Tuy nhiên, một số động vật thử nghiệm bị nhiễm bệnh đã được thả ra gây bệnh dịch hạch cho khoảng 30.000 người tại Bình Phòng.
Sau đó, các nhà khoa học của Đơn vị 731 đã được miễn truy tố tội ác chiến tranh, đổi lại họ phải cung cấp cho chính phủ những thông tin tuyệt mật đã nghiên cứu.
Nhận xét: "Chính phủ" ở đây là chính phủ Mỹ.

Nhận xét: Cuốn sách "Đội vi trùng 731" do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 1987 là một hồi ký của một ngườiNhật vớinhữngmô tả rất chi tiết về chốn địa ngục này.
Link: https://archive.org/details/doi-vi-trung-731.-1987/page/5/mode/2up
Link: https://ia800505.us.archive.org/29/items/doi-vi-trung-731.-1987/Đội vi trùng 731. 1987.pdf
 

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt
Nhật Bản đã chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh sinh học quy mô lớn chống lại Liên Xô, Trung Quốc, cũng như Mỹ và Anh trong nhiều năm. Chỉ có cuộc tấn công thần tốc của Hồng quân vào tháng 8 năm 1945 mới ngăn cản được những kế hoạch này. "Biệt đội 731" đã vội vàng "che đậy dấu vết", phá hủy "cơ sở sản xuất" và hầu hết những người chứng kiến, thậm chí là chính nhân viên của họ. Nhưng không thể giấu được mọi chuyện. Một số "nhà khoa học" - những kẻ cuồng tín đã bị Liên Xô bắt giữ.
Nhưng các bị cáo chính của "Biệt đội 731", với người đứng đầu - nhà vi sinh vật học, trung tướng Ishii Shiro - đã tìm thấy sự bảo trợ ở bên kia Thái Bình Dương! Họ chia sẻ "kinh nghiệm" của mình với người Mỹ để đổi lấy quyền miễn trừ cá nhân. Sau đó, họ đã tích cực giúp đỡ tại trung tâm của các chương trình phát triển vũ khí sinh học tại Fort Detrick (Maryland). Nói chung, theo dữ liệu mới nhất từ chính người Mỹ (Trường Kinh tế Harvard), hơn 3 600 nhà sinh vật học Nhật Bản tham gia vào chương trình vũ khí vi khuẩn đã tìm thấy nơi trú ẩn tại Hoa Kỳ.
Cuối năm 1949, một phiên tòa đã diễn ra ở Khabarovsk đối với 12 tội phạm chiến tranh Nhật Bản, trong đó có cựu tư lệnh đội quân Quan Đông, tướng Yamada Otozo. Họ bị buộc tội tạo ra và sử dụng vũ khí vi khuẩn, không một nạn nhân nào sống sót trong các "thí nghiệm" của các "nhà khoa học" Nhật Bản - những kẻ giết người.
Tất cả 12 bị cáo trong phiên tòa ở Khabarovsk đều nhận tội và phải chịu mức án tù từ 2 đến 25 năm.
Hồng quân đã cứu thế giới thoát khỏi cuộc chiến tranh vi trùng
Ngày 20/8/1945, Hồng quân giải phóng Mãn Châu, nơi tập trung các cơ sở chính của Nhật Bản để phát triển vũ khí vi trùng. Như vậy, quân đội Liên Xô đã cứu thế giới khỏi một thảm họa mới - chiến tranh vi trùng do Nhật Bản lên kế hoạch thực hiện.
năm 1945 Nhật Bản đã chuẩn bị cho cuộc chiến vi khuẩn chống lại Liên Xô
Bất chấp Chiến tranh thế giới thứ hai đang tới hồi kết thúc, vào tháng 3 năm 1945 Nhật Bản vẫn chuẩn bị cho một cuộc chiến vi khuẩn chống lại Liên Xô. Theo tính toán của Tokyo cuộc chiến này sẽ phải bắt đầu vào tháng 6 cùng năm, căn cứ các tài liệu được FSB giải mật bởi.


Hồng quân đã cứu thế giới thoát khỏi cuộc chiến tranh vi khuẩn
Ngày 20/8/1945, Hồng quân giải phóng Mãn Châu, nơi tập trung các cơ sở chính của Nhật Bản để phát triển vũ khí vi khuẩn. Như vậy, quân đội Liên Xô đã cứu thế giới khỏi một thảm họa mới - chiến tranh vi khuẩn do Nhật Bản lên kế hoạch thực hiện.

biên bản hỏi cung Sei Yamamoto, một nhân viên của đơn vị đặc biệt 731 thuộc Quân đội Kwantung. Người này khai rằng đã tìm kiếm cách thức bảo tồn lâu dài khả năng kháng thuốc của vi khuẩn lao và phó thương hàn "B" để sử dụng trong chiến tranh vi khuẩn.
"Tất cả các nghiên cứu về vi khuẩn lao và phó thương hàn "B" mà tôi đã đích thân tiến hành ... đều được thực hiện với mục đích sử dụng chúng làm vũ khí trong cuộc chiến chống Liên Xô mà theo tôi biết sẽ bắt đầu vào tháng 6 Năm 1945. "
Đơn vị 731
Trong các đơn vị 731 và 100 đã diễn ra thí nghiệm về việc lây nhiễm vi khuẩn bệnh dịch hạch, bệnh than, bệnh tả, thương hàn và các vi khuẩn khác cho người. Hầu hết những người bị nhiễm bệnh đều chết trong sự đau đớn khủng khiếp. Những người hồi phục lại bị mang ra thí nghiệm nhiều lần và cuối cùng cũng bị giết. Quân đội Nhật Bản đã tiến hành các thí nghiệm vô nhân đạo khác trên con người, để cuối cùng đưa đến cái chết của họ.

Câu chuyện kinh hoàng về Đơn vị 731 của Nhật chuyên tiến hành những thí nghiệm khủng khiếp trên người dưới vỏ bọc "nghiên cứu chiến tranh" trước và trong Thế chiến II lại một lần nữa được phơi bày trong cuốn sách có nhan đề “Đơn vị 731: Phòng thí nghiệm của ác quỷ, Auschwitz của phương Đông” được xuất bản gần đây.
Hơn 3.000 người, chủ yếu là người Trung Quốc và cả tù binh chiến tranh Nga, Anh, Mỹ đã bị các nhà nghiên cứu của Đơn vị 731 coi như chuột bạch để trị bệnh hoại tử vì tê cóng.
Đơn vị 731 được thành lập năm 1936 ở Cáp Nhĩ Tân, đông bắc Trung Quốc để quân đội Nhật hoàng tiến hành nghiên cứu về các mầm bệnh thời chiến, khả năng của vũ khí và những giới hạn của con người. Đơn vị được công bố rộng rãi là Cục Phòng chống dịch bệnh và xử lý nước Đạo quân Quan Đông. Được thành lập bởi Hiến binh của Đế quốc Nhật Bản, Đơn vị 731 được điều hành bởi Tư lệnh Ishii Shiro đến tận khi kết thúc chiến tranh.

Đơn vị 731 được đặt tại quận Bình Phòng thuộc thành phố Cáp Nhĩ Tân, thành phố lớn nhất trong chính quyền bù nhìn Mãn Châu Quốc (giờ là đông bắc Trung Hoa). Hơn 10.000 người - tức khoảng 600 người mỗi năm bị Hiến binh Nhật bắt giữ để làm vật thí nghiệm cho dự án 731.

Hơn 95% tổng số nạn nhân chết trong trại tập trung ở Bình Phòng là người Trung Quốc và Hàn Quốc, bao gồm cả binh lính và dân thường. 5% còn lại là người Đông Nam Á, người ở Thái Bình Dương, người dân thuộc địa của Đế quốc Nhật Bản, và một số nhỏ tù binh chiến tranh trong Thế chiến II...
Hình ảnh về những nghiên cứu và thử nghiệm ghê rợn của đơn vị trên mới đây đã xuất hiện trong cuốn sách có nhan đề “Đơn vị 731: Phòng thí nghiệm của ác quỷ, Auschwitz của phương Đông”. Các bức ảnh cho thấy binh sĩ Nhật tham gia giải phẫu sống - tiến hành những cuộc phẫu thuật trên người sống để nghiên cứu các bộ phận và mô sống.

Các thí nghiệm và giải phẫu trên nam, nữ và trẻ em đều được tiến hành trong tình trạng không tiêm thuốc tê để kết quả không bị thuốc tác động. Các tù nhân sẽ bị cho nhiễm bệnh, rồi sau đó, nội tạng của họ được lấy để các nhà khoa học nghiên cứu tác động của bệnh trước khi nó phân hủy.

Ngoài ra, tù nhân còn bị chặt tay chân để các nhà khoa học thuộc Đơn vị 731 nghiên cứu tình trạng mất máu. Tiếp đó, các bộ phận sẽ được gắn lại ở phía bên kia của cơ thể, các tài liệu ghi chép cho thấy.Các nhà khoa học Nhật còn dùng tù nhân để nghiên cứu các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

Theo đó, các tù nhân nhiễm bệnh giang mai bị ép quan hệ tình dục với tù nhân khỏe mạnh để nghiên cứu virus lây lan như thế nào. Cũng theo các nhà sử học, các bác sĩ Nhật thời Thế chiến II đã tiêm máu động vật vào người sống hoặc buộc người nhiễm bệnh ở chung xà lim với người khỏe để tìm hiểu cách thức lây nhiễm bệnh.

Một số nạn nhân của Đơn vị 731 đã chết, một số khác được cho là bị chôn sống hoặc chết chìm. Ngoài việc tiến hành các thí nghiệm ghê rợn, Đơn vị 731 còn thả vi khuẩn gây bệnh thương hàn, tả và nhiều bệnh khác xuống hệ thống nước ở các làng của Trung Quốc.

Theo Hội thảo quốc tế về tội ác của chiến tranh vi khuẩn năm 2002, số người bị giết bởi Quân đội Đế quốc Nhật qua thử nghiệm vi khuẩn trên người là khoảng 580.000 người. Theo một số nguồn khác, việc sử dụng vũ khí sinh hóa nghiên cứu bởi Đơn vị 731 đã dẫn tới hơn 200.000 cái chết của cả binh lính và dân thường Trung Quốc.

Ban đầu, Chính phủ Nhật phủ nhận sự tồn tại của Đơn vị 731. Tuy nhiên, năm 1998, Tòa án tối cao Nhật đã thừa nhận gián tiếp về lực lượng này qua một phán quyết. Người chịu trách nhiệm chính về Đơn vị 731 là Trung tướng Shiro Ishii cũng như nhiều nhân vật khác đã được Tòa án quân sự quốc tế khu vực Cận Đông miễn trừ xét xử sau khi họ giao cho Mỹ các dữ liệu thí nghiệm về mầm bệnh thời chiến.

Gần đây, Cơ quan lưu trữ quốc gia Nhật đã công bố tên của 3.607 thành viên của Đơn vị 731 khét tiếng, trong đó có 52 bác sĩ phẫu thuật, 49 kỹ sư, 38 y tá và 1.117 bác sĩ dã chiến. Đây là lần đầu tiên, hầu hết tên thật và địa chỉ của các thành viên Đơn vị 731 được tiết lộ trong các tài liệu chính thức. Những người có trong danh sách này có thể sẽ phải ra hầu tòa vì những tội lỗi man rợ họ gây ra năm xưa.
Thành lập vào năm 1935, Đơn vị 731 ban đầu được biết đến rộng rãi với tên gọi 'Cục phòng chống dịch bệnh và xử lý nước Đạo quân Quan Đông' do Tướng Shiro Ishii quản lý.

Tuy nhiên, trên thực tế, 731 lại 'nổi danh' với những cuộc thử nghiệm vũ khí nguy hiểm trên cơ thể trên cơ thể người trong Thế chiến 2.

Trụ sở chính của 731 được đặt tại quận Bình Phòng của thành phố Cáp Nhĩ Tân, Đông Bắc Trung Quốc ngày nay với diện tích lên tới 6km2 và hơn 150 tòa nhà.

Suốt 10 năm tồn tại, Đơn vị 731 được cho là đã gây nên cái chết của gần 200.000 người, phần lớn trong số đó là từ Trung Quốc và Hàn Quốc. Ngoài ra, còn có các tù binh chiến tranh tại phương Tây và Đông Nam Á..
Không giống như các nhà tù Do thái của Đức quốc xã, mục đích chính của Đơn vị 731 là nghiên cứu các chương trình vũ khí hóa - sinh.

Tù nhân tại Đơn vị 731 được sử dụng như những đối tượng thí nghiệm và phải trải qua những màn tra tấn kinh hoàng như cắt tứ chi, giải phẫu hay bị nổ tung cả cơ thể...

Một cựu thành viên của Đơn vị 731 đã miêu tả về quá trình giải phẫu trên cơ thể các đối tượng thí nghiệm như sau:

'Nạn nhân sẽ được tắm rửa sạch sẽ trước khi đưa lên bàn mổ. Một người sẽ dùng ống nghe để kiểm tra nhịp tim. Sau đó, người còn lại sẽ phẫu thuật trên cơ thể nạn nhân mà không sử dụng thuốc gây tê'.


Để tìm ra phương thức chữa trị cho các binh sĩ bị thương bởi mảnh bom đạn, Đơn vị 731 từng trói các tù nhân và để họ đứng tại nhiều khoảng cách nhau rồi kích hoạt khối thuốc nổ. Những người còn sống sót sẽ được phẫu thuật và nghiên cứu.

Bên cạnh bom, các tù nhân cũng được sử dụng như bia đỡ trong các cuộc thử nghiệm súng phun lửa hoặc vũ khí hóa học.

Một số tù binh bị tháo rời tay để nghiên cứu ảnh hưởng của việc mất máu. Đôi khi, những cánh tay cũng được gắn lại hoặc bị nhúng vào bể đá để quan sát quá trình hoại tử.

Các nạn nhân khác thì bị nhốt trong phòng ngạt khí ga với những loại vũ khí hóa học độc hại.

'Luôn có từ 2.000 - 3.000 người được chuẩn bị sẵn sàng để thí nghiệm. Có 2 lò hỏa thiêu hoạt động cả ngày lẫn đêm,' Shoichi Matsumoto, một phi công ném bom của Đơn vị 731, nhớ lại.

Khi Thế chiến 2 bước vào giai đoạn cuối cùng, các nhà khoa học thuộc Đơn vị 731 đã phá hủy hầu hết bằng chứng của chương trình. Tuy nhiên, một số động vật thử nghiệm bị nhiễm bệnh đã được thả ra gây bệnh dịch hạch cho khoảng 30.000 người tại Bình Phòng.
Sau đó, các nhà khoa học của Đơn vị 731 đã được miễn truy tố tội ác chiến tranh, đổi lại họ phải cung cấp cho chính phủ những thông tin tuyệt mật đã nghiên cứu.
Nhận xét: "Chính phủ" ở đây là chính phủ Mỹ.

Nhận xét: Cuốn sách "Đội vi trùng 731" do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 1987 là một hồi ký của một ngườiNhật vớinhữngmô tả rất chi tiết về chốn địa ngục này.
Link: https://archive.org/details/doi-vi-trung-731.-1987/page/5/mode/2up
Link: https://ia800505.us.archive.org/29/items/doi-vi-trung-731.-1987/Đội vi trùng 731. 1987.pdf

 
Bên trên