Nhìn lại, hoàn toàn rõ ràng rằng người Pháp ở Điện Biên Phủ đã có một khuyết điểm chí mạng: sự ngạo mạn .
Họ mang một loạt máy ủi và vài bao xi măng đến một thung lũng hẻo lánh, xây dựng một đường băng, xây dựng một số boongke kiên cố và sau đó gọi nhóm vị trí quá căng này là “một pháo đài dường như bất khả xâm phạm và không thể tấn công”. Chính sự ngạo mạn đã khiến người Pháp ở Điện Biên Phủ đánh giá thấp địch (Việt Minh), sự tháo vát, kiến thức quân sự và quyết tâm chiến đấu đến cùng của họ. Người Pháp thậm chí còn không thèm chiếm giữ những vùng đất cao xung quanh thung lũng. Để làm gì, phải không? Một nhóm nông dân châu Á hốc hác và mù chữ có thể làm gì để chống lại một đội quân chuyên nghiệp với xe tăng, pháo, boongke kiên cố và máy bay? Không có cách nào Việt Minh có thể mang bất kỳ loại vũ khí hạng nặng nào xuyên qua rừng rậm và núi dốc đến Điện Biên Phủ. Hoặc họ nghĩ vậy.
Trên thực tế, Điện Biên Phủ bị bao vây bởi 5 sư đoàn Việt Minh được trang bị súng dã chiến, rocket và súng cối hạng nặng. Các khẩu đội Việt Minh được ngụy trang khéo léo trên khắp các ngọn đồi xung quanh có thể nhìn thẳng vào họng quân Pháp và bắn phá chúng một cách chính xác và không bị trừng phạt. Trận chiến diễn ra được hai ngày, chỉ huy pháo binh Pháp, Trung tá Charles Piroth, quẫn trí vì không thể bắn trả vào súng của Việt Minh, đã đi vào hầm đào và tự sát bằng lựu đạn cầm tay.
Việc tiếp tế từ trên không cũng không thể thực hiện được vì các đường bay ra vào thung lũng đã bị chặn bởi một số lượng lớn súng phòng không Việt Minh đủ cỡ. Điện Biên Phủ là một cái bẫy chết chóc đối với 16.200 quân Pháp đóng ở đó.
Như vậy hiển nhiên để người Pháp chiếm ưu thế ở Điện Biên Phủ, họ cần phải có:
- Giữ vững các vùng đất cao xung quanh thung lũng, đồn trú những tiền đồn đó với những người lính dày dạn kinh nghiệm
- Đã đánh bại kẻ thù. Quân Pháp ở 'pháo đài bất khả công' DBP chỉ có 6 khẩu đội pháo 105mm và 1 khẩu pháo 155mm, ít thảm hại.
- Giữ cầu tiếp tế trên không, tiếp tế cho quân đội nhiên liệu, lương thực và đạn dược cần thiết.
Tất cả những điều này không chỉ là một lý thuyết viển vông được viết bởi một vị tướng ngồi bành nào đó, nó đã được thử nghiệm và kiểm nghiệm trong Trận Khe Sanh.
Đầu năm 1968, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tại Căn cứ Chiến đấu Khe Sanh ở miền Nam Việt Nam đã bị tấn công bởi bộ binh và pháo binh Bắc Việt được huấn luyện bài bản. Tuy nhiên, Mỹ đã học được bài học của DBP và không mắc phải sai lầm tương tự.
- Những ngọn đồi xung quanh Khe Sanh bị tranh giành gay gắt. Không một ai bị bỏ cuộc mà không chiến đấu. Mỹ thậm chí còn chiếm lại Đồi 881 Nam và Đồi 861 từ tay quân Bắc Việt, buộc pháo binh của quân Bắc Việt phải bố trí xa căn cứ hơn rất nhiều.
- Khe Sanh được hỗ trợ bởi số lượng lớn pháo binh, bao gồm cả pháo tự hành tầm xa M107 175 mm đáng sợ từ các căn cứ hỏa lực Rockpile và Camp Carroll gần đó. Nhưng hiệu quả nhất là các cuộc không kích không ngừng nghỉ của Mỹ, đặc biệt là ném bom rải thảm do B-52 thực hiện. Trong 77 ngày, 115.000 tấn bom kinh hoàng đã được thả xuống để hỗ trợ căn cứ Thủy quân lục chiến - cuộc tấn công trên không lớn nhất vào mục tiêu chiến thuật trong lịch sử chiến tranh.
- Khe Sanh nhận được 18.000 tấn tiếp tế trên không trong trận chiến kéo dài 77 ngày, trong khi trong 167 ngày quân Pháp ở lại DBP (trận chiến chỉ kéo dài 56 ngày), họ chỉ nhận được 4.000 tấn.
Một biện pháp bổ sung khác đã được đích thân Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson trực tiếp áp dụng: ông yêu cầu toàn bộ Tham mưu trưởng Liên quân ký bằng máu một tuyên bố rằng họ sẽ giữ Khe Sanh bằng mọi giá (đoán là người Pháp chưa thử điều đó, duh) .
Cuối cùng, sau khi bị thương vong nặng nề, quân Bắc Việt rút lui khỏi Khe Sanh. Thủy quân lục chiến Mỹ cũng bỏ căn cứ một thời gian sau đó nhưng rõ ràng nó chưa bao giờ bị tràn ngập như Điện Biên Phủ.