Huyndai thành lập 1967, liên doanh với ford 1968 đến tận 1975 mới đc Mitsubishi chia sẻ công nghệ oto mà mày kêu vươn tầm thế giới năm 60?
Năm 1960, Việt Nam Cộng hoà vẫn còn xuất khẩu được gạo với tổng mức là 340.000 tấn, nhưng sau đó do tình hình chiến sự với
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, nông thôn bắt đầu thiếu an ninh và sự tàn phá của bom đạn khiến sản lượng gạo tụt xuống. Xuất cảng gạo xuống dần, tới năm 1962 chỉ còn 85.000 tấn. Từ 1965 trở đi thì phải chuyển sang nhập khẩu gạo, có năm lên tới 760.000 tấn. So với năm 1939: xuất cảng gạo của riêng Nam Bộ lên tới gần hai triệu tấn. Tới năm 1954 cũng vẫn còn 520.000 tấn
[56].
Nhờ những chính sách phát triển nông thôn, từ năm 1970, sản xuất lúa gạo tại miền Nam đã tăng trở lại. Thêm vào đó là nhờ tiến bộ kỹ thuật: loại lúa giống IR-3 phát xuất ở
Philippines được đem vào đồng bằng Cửu Long, nhờ phát triển nhanh và tốt, còn được gọi là lúa Thần Nông. Đến năm 1971 thì lúa Thần Nông đã phủ được trên 2,6 triệu mẫu ruộng, bằng 42% diện tích canh tác
[41]. Sản lượng lúa năm 1973 là 6,35 triệu tấn, tăng lên so với 4.955.000 tấn năm 1960, gần tới mức đủ ăn. Nhập khẩu gạo năm 1973 giảm xuống chỉ còn 370.000 tấn.
[57] Dự tính của Việt Nam Cộng hòa là tới năm 1976 có thể xuất khẩu gạo nếu duy trì được mức tăng này.
Cây công nghiệp được đẩy mạnh để thay thế nhập khẩu: sản xuất
thuốc lá đã tới trên 18.000 tấn so với 9.000 tấn năm 1971;
mía đường lên trên 900.000 tấn, gần gấp ba mức 1970. Dự phóng cho 1975 là sẽ tăng gấp đôi, tức 1,8 triệu tấn.
Ngô bắp thì từ 31.000 tấn (1970), tăng lên trên 50.000 tấn (1974).
Đồn điền cao su với diện tích hơn 100.000 hecta vào năm 1968 sản xuất chỉ hơn 20.831 tấn năm 1969 nhưng đến năm 1970 đã đạt 24.100 tấn
[58] lại có khả năng phục hồi sản xuất trên 70.000 tấn cao su như mức tiền chiến.
[59] Xuất cảng
tôm và hải sản từ vỏn vẹn 500.000 tăng lên gần 11 triệu đô la. Dự đoán cho 1975 là 30 triệu. Tổng số xuất cảng năm 1973 lên tới 53 triệu USD, tăng gấp ba lần năm 1972.
Việc cơ khí hóa nền nông nghiệp nhìn chung vẫn còn ở mức kém. Mức độ cơ khí hóa nông nghiệp của Việt Nam Cộng hòa là 0,2 mã lực/mẫu, so với 0,5 mã lực/mẫu của Đài Loan cùng thời. Diện tích sử dụng máy cày không quá 20% tổng diện tích canh tác. Tỷ lệ diện tích đất canh tác được trang bị hệ thống thủy nông còn thấp, các máy bơm chưa đảm bảo tưới nổi 1/10 diện tích nông nghiệp (trong khi tại Thái Lan năm 1962 là 30%, tại Malaixia năm 1966 là 40%, tại Đài Loan năm 1967 là 74%, tại Hàn Quốc năm 1965 là 83%, tỷ lệ trung bình tại các quốc gia Đông Nam Á là 35%). Về mức độ sử dụng phân bón, Việt Nam Cộng hòa đạt mức 150 kg/ha, trong khi đó Đài Loan là 310 kg/ha, Hàn Quốc là 230 kg/ha và Nhật Bản là 400 kg/ha, ở miền Bắc Việt Nam cùng thời cũng đã đạt 300 kg/ha. Toàn bộ phân bón hóa học của Việt Nam Cộng hòa phải nhập khẩu do không có nhà máy phân bón, trong khi ở miền Bắc Việt Nam khi đó sản xuất được 700-800 ngàn tấn/năm
[60]