Kiến thức Trong ba trận thủy chiến Bạch Đằng nổi tiếng, trận nào ấn tượng hơn cả?

ditthangbanh

Chim TO
Sông Bạch Đằng chảy giữa thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) và huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách Vịnh Hạ Long, cửa Lục khoảng 40km, nằm trong hệ thống sông Thái Bình, là đường thủy tốt nhất để đi vào Hà Nội (Thăng Long xưa) từ nam Trung Quốc. Có 3 trận thủy chiến Bạch Đằng lưu danh sử sách của Ngô Quyền năm 938, Lê Đại Hành năm 981 và Trần Hưng Đạo năm 1288. Cho đến tận ngày nay các nhà sử học còn chưa hình dung nổi các cụ dùng cách gì để chôn cọc bít mũi sắt. Chỉ biết rằng cọc dựa vào thế Thủy Triều mà trồi lên khiến các thuyền lớn của giặc không thể tháo chạy, quân Đại Việt mặc sức dùng hỏa công, dùng thủy binh nhẹ ra phá.

Mời anh em luận bàn về 3 trận thủy chiến kinh điển này:

Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán năm 938

Trận đầu vang danh chiến thắng Bạch Đằng là khi Ngô Quyền đập tan quân Nam Hán năm 938, đánh dấu đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Sách Đại Việt Sử ký toàn thư cho biết kế sách đánh giặc của Ngô Quyền: “Nếu sai người đem cọc nhọn, đầu bịt sắt cắm ngầm trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào thoát”. Chính Ngô Quyền đã khẳng định điều đó với tướng lĩnh của mình “không kế gì hơn kế ấy cả”.

su-kien-ls-1-1-1b19e23f9bcd4ad8b9c93a1a031068b0.png


Đức vương Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng Giêng năm Mậu Ngọ (tức ngày 6 tháng 2 năm 898), tại làng Mông Phụ, Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội ngày nay. Sinh ra trong một dòng họ hào trưởng có thế lực, cha là Ngô Mân làm chức châu mục Đường Lâm, ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra là người có trí dũng song toàn, được dạy bắn cung nỏ, sử dụng giáo gươm, bí mật binh pháp. Ngô Quyền lớn lên trong lúc đất nước mới dành được quyền tự chủ, ông nối chí cha tập hợp lực lượng và trở thành một hào trưởng hùng mạnh trong vùng. Ông được Dương Đình Nghệ, (vốn là một bộ tướng của Khúc Thừa Mỹ, sau tự xưng là Tiết độ sứ) tin yêu, mời về làm Nha Tướng và gả con gái cho. Sau lại được Dương Đình Nghệ giao cho trấn giữ Châu Ái - vùng đất phên dậu của quê hương họ Dương. Năm 937, Dương Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn giết hại để cướp ngôi Tiết độ sứ, gây nên sự căm phẫn trong các vị hào trưởng và nhân dân. Ngô Quyền bèn tập hợp lực lượng để tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Quá hoảng sợ, Kiều Công Tiễn đã vội vã cầu cứu Nam Hán, vua Nam Hán là Lưu Cung nhân cơ hội đó đã phong con trai là Lưu Hoàng Tháo thống lĩnh thủy quân vượt biển sang xâm lược nước ta.

Đất nước lâm nguy, Ngô Quyền một mặt tiêu diệt Kiều Công Tiễn trừ mối hoạ, mặt khác huy động nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến. Tại vùng cửa sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã huy động hàng ngàn binh sĩ và nhân dân địa phương xây dựng trận địa cọc để đón đánh quân xâm lược. Hơn ba nghìn cây gỗ được vót nhọn, bịt sắt rồi đóng xuống lòng sông trên một quãng dài 3 dặm, khi thuỷ triều lên, bãi cọc không bị lộ. Ngô Quyền dự định nhử quân địch vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền địch mắc cạn mới giao chiến. Vào một ngày cuối đông năm 938, đoàn binh thuyền do Hoàng Tháo chỉ huy rầm rộ vượt biển tiến vào cửa ngõ Bạch Đằng. Đúng lúc nước triều đang dâng cao, Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến, nhử địch đuổi theo vượt qua bãi cọc lọt vào trận địa mai phục của ta. Khi đoàn thuyền của Hoàng Tháo vượt qua vùng cửa biển, nước triều rút mạnh, quân ta quay lại phản công quyết liệt. Trận địa cọc nhô lên chặn đứng đoàn thuyền giặc, nhiều chiếc bị cọc gỗ đâm thủng, va vào nhau rồi chìm xuống dòng sông. Chủ tướng Hoàng Tháo bỏ mạng cùng quá nửa quân sĩ. Vua Nam Hán cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó. Nghe tin Hoằng Tháo tử trận, Lưu Cung kinh hoàng, đành thu nhặt số quân còn lại mà rút lui. Từ đó, nhà Nam Hán bỏ hẳn mộng xâm lược nước ta. Sau chiến thắng lẫy lừng, năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, xưng là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa (tức Đông Anh, Hà Nội ngày nay).

su-kien-ls-1-2-904dfe8a2ee24b2dbbfcb78287afd8db.png


Đại thắng Bạch Đằng năm 938 được ghi vào lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta như một chiến công chói lọi, chấm dứt nền thống trị hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở ra một kỷ nguyên độc lập lâu dài cho dân tộc Việt Nam. Ngô Quyền - người anh hùng của chiến thắng oanh liệt trên sông Bạch Đằng năm 938 đã trở thành vị vua có "công tái tạo, vua của các vua”, xứng đáng là "vị tổ trung hưng" của dân tộc.

Lê Đại Hành và chiến thắng Bạch Đằng năm 981

Trận kỳ chiến gắn với bậc kỳ nhân thứ hai tại Bạch Đằng giang diễn ra trong giai đoạn chiến tranh Tống - Việt năm 981, và nhà cầm quân tài ba được vinh danh chiến thắng là vua Lê Đại Hành. Sau cuộc chiến lớn này, Đại Tống chấp nhận xuống nước và chính thức thừa nhận Lê Đại Hành cai trị Đại Cồ Việt.

su-kienls2-1-816e8f75d2ba4ecd8b037aa41f3e5f00.png


Hoàng đế Lê Đại Hành (tên húy là Lê Hoàn) sinh năm 941 tại làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Ông mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lại mang tướng mạo khác thường nên viên quan án sát họ Lê đã nhận ông về nuôi dưỡng. Lớn lên, ông theo giúp Đinh Liễn - con trai trưởng của Đinh Tiên Hoàng. Vốn là người trí dũng, Lê Hoàn được Đinh Tiên Hoàng giao cho cai quản hàng ngàn quân sĩ. Năm 971, ông được thăng lên chức võ quan cao nhất là Thập đạo tướng quân, Điện tiền đô chỉ huy sứ của triều Đinh.

Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và thế tử Đinh Liễn bị ám sát, con thứ Đinh Toàn mới 5 tuổi lên nối ngôi, triều đình nhà Đinh suy yếu. Nhân cơ hội này, nhà Tống ráo riết tập trung binh lực chuẩn bị xâm lược nước ta.

Đứng trước vận mệnh nguy nan của đất nước, triều đình đã suy tôn Lê Hoàn làm vua (tức vua Lê Đại Hành), lập nhà Tiền Lê năm 980. Ông đặt niên hiệu là Thiên Phúc, quốc hiệu vẫn là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư, ổn định tình hình nội bộ, rồi chia quân phòng giữ các nơi hiểm yếu.

Nhà Tống lấy cớ Lê Hoàn tự xưng Đế, đổi niên hiệu để đem quân thôn tính nước ta. Mùa xuân năm 981, 4 vạn quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy theo hai đường thuỷ bộ đánh chiếm nước ta. Lê Đại Hành thân chinh làm tướng cầm quân, cho xây thành Bình Lỗ, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông dựa vào địa thế hiểm trở của sông Bạch Đằng.

su-kienls2-2-d1820b96df1b48a7bccba2a729068bab.png


Sau hơn hai tháng tiến đánh, không chiếm được Đại La và kinh đô Hoa Lư, quân địch lúng túng vì chịu nhiều tổn thất nặng nề, Lê Đại Hành quyết phản công. Ngày 28/4/981, trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng diễn ra, Lê Đại Hành đã cho một cánh quân ra khiêu chiến với quân địch, Hầu Nhân Bảo trúng kế đuổi theo và lọt vào trận địa mai phục.

Lúc này, các chiến binh Đại Cồ Việt từ khắp các nẻo đường đổ về sông Bạch Đằng vây đánh quân Tống quyết liệt. Hầu Nhân Bảo bị giết chết. Nghe tin thuỷ quân thua trận, các cánh quân khác vội vã tháo chạy, bị quân Đại Cồ Việt truy kích tiêu diệt quá nửa, quân Tống bị quét sạch khỏi bờ cõi nước ta. Đại thắng Bạch Đằng năm 981 khiến nhà Tống phải kính nể tài năng và bản lĩnh của Lê Đại Hành, xuống nước công nhận ông là vua của Đại Cồ Việt.

Bạch Đằng năm 1288 - Trận thuỷ chiến chấn động Thế Giới

Dòng Bạch Đằng giang lần thứ ba lần đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc là vào năm 1288, với chiến công của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trước quân Nguyên Mông.

su-kienls3-1-baba2bc19bd64fb99886130cde415ca0.png


Trần Quốc Tuấn sinh năm 1228, thuộc dòng dõi tôn thất nhà Trần. Suốt cuộc đời, ông hết lòng phụng sự cả 4 đời vua Trần thịnh trị. Ông là bậc tướng cột đá chống trời, hội tụ cả tài lẫn đức và trong cả ba lần đánh quân Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn, được sử sách ngợi ca.

Trong trận chiến Bạch Đằng năm 1288, đích thân ông đã đặt chân đến vùng đất Tràng Kênh và các làng xã lân cận để bày trận đón đánh sự rút chạy của đội quân xâm lược Nguyên Mông, làm nên chiến thắng vĩ đại Bạch Đằng lần thứ 3 năm 1288.

Tháng 3/1288, biết được ý đồ rút quân bằng đường thuỷ qua sông Bạch Đằng của quân địch, Trần Quốc Tuấn đã chỉ huy quân dân Đại Việt chuẩn bị một trận địa mai phục lớn trên sông. Các loại gỗ lim, táu… đã được đốn ngã trên rừng kéo về bờ sông và được đẽo nhọn cắm xuống lòng các cửa sông dẫn ra biển làm thành những bãi chông lớn.

Các cánh quân thuỷ bộ bí mật mai phục sau dãy núi đá Tràng Kênh dọc bờ sông Bạch Đằng. Sáng ngày 9/4/1288, khi đoàn thuyền của Ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao chiến, rồi giả thua bỏ chạy. Trúng kế, thuyền giặc di chuyển vào sâu bên trong sông Bạch Đằng, tiến vào bãi cọc.

Quân ta đợi cho thủy triều xuống mới quay thuyền lại và đánh thẳng vào đội hình địch. Thủy quân Đại Việt từ các hướng nhanh chóng tiến ra sông Bạch Đằng, với hàng trăm chiến thuyền cùng quân lính tạo thành một dải thuyền chặn đầu thuyền địch ngang trên sông.

su-kienls3-2-7e0eb7e63e8f4d79b197774916c0422b.png


Quân Nguyên Mông bị mắc kẹt, tổn thất nặng nề, nhiều chiến thuyền bị cháy rụi và đâm phải cọc nhọn. Một số cánh quân Nguyên bỏ thuyền chạy lên bờ sông để tìm đường trốn chạy nhưng đều rơi vào ổ phục kích của quân nhà Trần, bị chặn đánh kịch liệt. Chỉ trong vòng 1 ngày, hơn 600 chiến thuyền và khoảng 6 vạn quân địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân dân nhà Trần đại thắng.
 

ditthangbanh

Chim TO
Chủ thớt
Trong Toàn Thư nói về trận 981:
[14a] Tân Tỵ, Thiên Phúc ] năm thứ 2 [981] , ( Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 6, xét các bản chép niên kỷ các triều đều ghi năm này là năm Thiên Phúc thứ 1, nay sửa lại ). Mùa xuân, tháng 2, Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàng Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng284 .

Vua tự làm tướng đi chặn giặc, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông Chi Lăng285 . Vua sai quân sĩ trá hàng để dụ Nhân Bảo, đem chém. Bọn Khâm Tô. nghe tin quân thủy thua trận, dẫn quân về. Vua đem các tướng danh, quân của Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, thây chết đầy đồng, bắt được tướng giặc là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất yên. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí nhân quảng Hiếu Hoàng Đế.
su-kienls2-2-d1820b96df1b48a7bccba2a729068bab.png

Theo Khâm định:
Tháng 3, mùa xuân. Quân Tống sang xâm lược. Nhà vua tự làm tướng, đánh bại quân địch.

Bấy giờ quân Tống chia đường sang xâm lấn: Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng kéo đến Lạng Sơn; Trần Khâm Tộ kéo đến Tây Kết, Lưu Trừng kéo đến sông Bạch Đằng. Nhà vua tự làm tướng, ra kháng chiến: sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn cản địch. Quan quân Tống đông lắm. Quan quân ta đánh bất lợi: hai trăm thuyền chiến đều bị địch lấy mất cả. Hầu Nhân Bảo đem tiền quân tiến lên trước. Tôn Toàn Hưng đóng quân lại, không đi; Nhân Bảo thường phải thúc giục. Khi quân Tống kéo đến sông Chi Lăng, nhà vua sai người trá hàng, dụ bắt được Nhân Bảo, đem chém. Bọn Lưu Trừng rút lui. Khâm Tộ nghe tin, trút quân quay về. Nhà vua lại đem các tướng truy kích: quân Khâm Tộ thua to, chết mất quá nửa. Bên ta bắt được bộ tướng của địch là bọn Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân, điệu về kinh đô. Chuyển vận sứ nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên đem tình hình thua trận tâu bày về triều, vua Tống xuống chiếu rút quân về.
 

Nam Đế

Tao là gay
Ví dụ như Hqng Đạo vương nói: học vua Lê xây thành Bình Lỗ mà hạ quân Tô gs
Trong khi đéo nói đến trận này ntn!
Chính vs chả sử, chán bỏ mẹ!
 

lyton1234

Yếu sinh lý
Về các trận này còn nhiều điều cần làm sáng tỏ. Ví dụ như bãi cọc ở đâu, cắm như thế nào, cách đánh dụ thuyền địch ra sao?….
Khảo cổ học hiện đại đã phát hiện một số bãi cọc ở Quảng Ninh và Hải Phòng, nhiều nghiên cứu từ các bãi cọc này cho thấy hầu hết được cắm ở ven bờ, khu đầm lầy và các bãi bồi ven sông, chứ khả năng cắm xuống lòng sông sâu vài mét là không có với công nghệ thời đó.
Một điều nuối tiếc nữa là chưa phát hiện được một xác thuyền hay mảnh thuyền nào cả.
 

Nam Đế

Tao là gay
Về các trận này còn nhiều điều cần làm sáng tỏ. Ví dụ như bãi cọc ở đâu, cắm như thế nào, cách đánh dụ thuyền địch ra sao?….
Khảo cổ học hiện đại đã phát hiện một số bãi cọc ở Quảng Ninh và Hải Phòng, nhiều nghiên cứu từ các bãi cọc này cho thấy hầu hết được cắm ở ven bờ, khu đầm lầy và các bãi bồi ven sông, chứ khả năng cắm xuống lòng sông sâu vài mét là không có với công nghệ thời đó.
Một điều nuối tiếc nữa là chưa phát hiện được một xác thuyền hay mảnh thuyền nào cả.
Bãi cọc ấy ko roz ràng đâu!
Vì đóng xong để lại ngang vs bẫy quân mình, khả năng là cọc phòng thủ ven bờ thôi.
 

ditthangbanh

Chim TO
Chủ thớt
Về các trận này còn nhiều điều cần làm sáng tỏ. Ví dụ như bãi cọc ở đâu, cắm như thế nào, cách đánh dụ thuyền địch ra sao?….
Khảo cổ học hiện đại đã phát hiện một số bãi cọc ở Quảng Ninh và Hải Phòng, nhiều nghiên cứu từ các bãi cọc này cho thấy hầu hết được cắm ở ven bờ, khu đầm lầy và các bãi bồi ven sông, chứ khả năng cắm xuống lòng sông sâu vài mét là không có với công nghệ thời đó.
Một điều nuối tiếc nữa là chưa phát hiện được một xác thuyền hay mảnh thuyền nào cả.
Đến bom dân còn mang ra cưa lấy đồng nát thì lấy đâu ra xác thuyền cho mà khảo.
 

Peter1953

Thạc sĩ
Về các trận này còn nhiều điều cần làm sáng tỏ. Ví dụ như bãi cọc ở đâu, cắm như thế nào, cách đánh dụ thuyền địch ra sao?….
Khảo cổ học hiện đại đã phát hiện một số bãi cọc ở Quảng Ninh và Hải Phòng, nhiều nghiên cứu từ các bãi cọc này cho thấy hầu hết được cắm ở ven bờ, khu đầm lầy và các bãi bồi ven sông, chứ khả năng cắm xuống lòng sông sâu vài mét là không có với công nghệ thời đó.
Một điều nuối tiếc nữa là chưa phát hiện được một xác thuyền hay mảnh thuyền nào cả.
cọc cũng ko có tác dụng mấy. bãi cọc thì có tìm ra rồi. đóng cọc cũng có phương pháp bập bênh để đóng. trước các cụ xây nhà đóng cọc tre cũng dùng chiêu này. khả năng mục đích chính ko phải đóng xuống lòng sông.
 

Peter1953

Thạc sĩ
3 trận chiến này sử sách. truyền thuyết. truyện đều có ghi lại.
đang thắc mắc mục đích chính của bãi cọc là gì. theo tao là tâm lý là chính và ngay ko cho tàu địch đổ bộ. còn tàu của mình tàu nhẹ lên đi chuyển rộng. nhanh xử lý tốt hơn. với thời đó thủy quân mình toàn dân chài sống ven biển lên khả năng chịu đựng và tính cơ động cao hơn thủy binh của giặc.
 

Peter1953

Thạc sĩ
Bãi cọc ấy ko roz ràng đâu!
Vì đóng xong để lại ngang vs bẫy quân mình, khả năng là cọc phòng thủ ven bờ thôi.
tao nghĩ mang tính tâm lý và phòng thủ địch đổ bộ hơn. chứ đóng cọc ko có tác dụng. chả lẽ địch nó ko biết lúc nào thủy triều lên xuống hay sao mà nó phải vào sát bờ. chờ thủy triều xuống rồi mới đi ra. mà kể cả nó bị bãi cọc ngăn lại, thì vẫn phải đánh nhau với nó trên thuyền. mà lúc đấy thuyền mình cũng có ra được để đánh đâu.
 

ditthangbanh

Chim TO
Chủ thớt
Ví dụ 2 bên cửa sông đóng nhiều cọc sau đó căng dây chắc chắn. Mục đích là thủy triều thì như một cái cửa nhô lên. Chứ đóng cọc giữa lòng sông là phi thực tế.
 

tatcataicong

Ham vui từ nhỏ
cọc cũng ko có tác dụng mấy. bãi cọc thì có tìm ra rồi. đóng cọc cũng có phương pháp bập bênh để đóng. trước các cụ xây nhà đóng cọc tre cũng dùng chiêu này. khả năng mục đích chính ko phải đóng xuống lòng sông.
Thế để làm đéo gì
 

Peter1953

Thạc sĩ
Ví dụ 2 bên cửa sông đóng nhiều cọc sau đó căng dây chắc chắn. Mục đích là thủy triều thì như một cái cửa nhô lên. Chứ đóng cọc giữa lòng sông là phi thực tế.
chỗ nào triều cạn vẫn đóng được. dùng bập bênh để đóng xuống. nhưng cảm giác cọc ko có tác dụng gì nếu đóng như thế. giả dụ quân địch chưa rút lúc triều xuống thì kể cả ko có cọc nó vẫn bị kẹt thôi. mà đã triều xuống thì thuyền của mình cũng có đi chuyển được đâu mà đánh.
 
Bên trên